(Moitruong.net.vn)

– Tín ngưỡng truyền thống quan niệm rằng người tuổi Gà (sinh năm Dậu) thường năng động, chăm chỉ, nhiệt tình, thông tuệ, đa tài và thành đạt. Thực tế, điều đó đã khá đúng nếu đem so với năng khiếu, bản sắc, số phận, sự nghiệp của các danh nhân tuổi Dậu tạo được ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực văn hóa và văn học nghệ thuật Việt Nam.

Đoàn Thị Điểm (1705 – 1746): Sinh năm Ất Dậu, quê Hải Dương, nữ sĩ thời Lê mạt, bút hiệu Hồng Hà Nữ sĩ. Xinh đẹp, tài hoa, ham học hỏi, lại thuộc dòng dõi quý tộc và nổi tiếng văn thơ trong vùng, được đón vào triều làm Giáo thụ, dạy dỗ cung tần. Năm 1739, đất nước loạn lạc, trở về quê, kết hôn với tiến sĩ Nguyễn Kiều rồi cùng chồng dạy học, sôi nổi hoạt động văn hóa nghệ thuật. Bà để lại nhiều bài thơ tràn trề tình cảm, da diết và tập truyện Truyền kỳ tân phả đầy ấn tượng. Bản dịch song thất lục bát tác phẩm Chinh phụ ngâm của bà còn được đánh giá là công trình dịch thuật từ thơ chữ Hán ra thơ chữ Nôm hoàn hảo nhất trong nền thi ca nước ta thời xưa.

Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1789): Sinh năm Tân Dậu, quê Bắc Ninh, nhà thơ, nhà văn hóa, danh thần thời Lê mạt, bút hiệu Tân Trai, Hy Tôn Tử, Như Ý Thiền Siêu Chân, Tân Thị Viện Tử, Sơn Thủy Nhân Hoa. Linh hoạt, bản lĩnh, văn võ song toàn, có họ hàng thân thích với nhà Trịnh (là cháu ngoại chúa Trịnh Cương), rất được triều đình trọng dụng. Tiến nhanh trên đường binh nghiệp: Mới 18 tuổi đã làm Hiệu úy, năm 30 tuổi thăng tới Tổng binh, thống quản toàn bộ quân đội, đắc lực giúp việc dẹp loạn, an dân. Ông rất am hiểu và nổi tiếng cả về văn, triết, sử lẫn âm nhạc, hội họa, kiến trúc. Về nhạc, soạn các bản Sơn trung âm, Sở từ điệu trầm hùng mà réo rắt. Về họa, vẽ nên bức tranh hoàng tráng Tống sơn đồ. Về kiến trúc, được chúa Trịnh tin giao cho việc trang hoàng phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích rất phức tạp với những đường nét tôn nghiêm, tinh xảo. Còn về thơ ca, ông là tác giả của nhiều bài nổi tiếng, được truyền tụng nhiều nhất là bản Cung oán ngâm khúc và 3 tập thơ: Tân Trai thi tập, Tiền hậu thi tập, Tây hồ thi tập.

Nguyễn Gia Thiều

Nhà thơ, nhà văn hoá Nguyễn Gia Thiều

Ngô Thì Chí (1753 – 1788): Sinh năm Quý Dậu, quê Hà Nội, nhà lịch sử văn hóa, danh sĩ thời Lê mạt, bút hiệu Uyên Mật. Nhiều nghị lực, trọng truyền thống, giỏi văn chương, đỗ hương tiến, làm quan đến chức Thiêm thư Bình chương tỉnh sự, tận tụy phục vụ triều Lê. Ông dành nhiều thời gian cho dạy học, sáng tác thơ ca và nghiên cứu văn hóa, để lại các tác phẩm giá trị: Quốc sử tiệp lục, Học thi thi tập, Học văn thi tập, Hoàng Lê nhất thống chí…

Nguyễn Du (1765 – 1820): Sinh năm Ất Dậu, quê Hà Tĩnh, nhà thơ, danh sĩ thời Nguyễn sơ, bút hiệu Thanh Hiên. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng nghị lực, mẫn cảm, thông minh. Sớm phò giúp nhà Nguyễn, giữ nhiều cương vị quan trọng, làm tới Hữu Tham tri Bộ Lễ và từng lãnh đạo đoàn đi sứ Trung Quốc năm 1813. Say mê thi phú, ông là tác giả của nhiều bài thơ đa chiều mà nhuần nhị, dạt dào tình cảm, trong các tác phẩm chính: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục… Đặc biệt Truyện Kiều với thể thơ lục bát, ngôn ngữ cực kỳ tài hoa, tinh tế và thấm đẫm tinh thần nhân đạo mà ông sáng tác bằng tất cả tâm huyết của mình đã đưa ông trở thành thi sĩ vĩ đại trong hồn thơ Việt Nam.

Đại thi hào Nguyễn Du

Đại thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820)

Trịnh Hoài Đức (1765 – 1825): Sinh năm Ất Dậu, quê Đồng Nai, nhà thơ, nhà sử học, danh thần thời Nguyễn sơ, bút hiệu Cấn Trai. Văn võ song toàn, phong thái mạnh mẽ, năm 1788 thi đỗ rồi ra làm quan, được triều đình trọng dụng, phong tới Thượng thư Bộ Lễ kiêm Bộ Hình, Phó Tổng tài Quốc sử quán. Ông là nhân vật chủ chốt của Hội thơ “Bình Dương thi xã” nổi tiếng ở miền Nam với nhiều thi phẩm bình dị, dân dã, phóng khoáng được nhiều người ngưỡng mộ, truyền tụng. Ông còn để lại các công trình địa lý, lịch sử, văn thơ giá trị: Gia Định thành thông chí, Cấn Trai thi tập, Bắc sứ thi tập.

Đặng Huy Trứ (1825 – 1874): Sinh năm Ất Dậu, quê Thừa Thiên – Huế, nhà nhiếp ảnh, danh sĩ đời Thiệu Trị, Tự Đức, bút hiệu Hoàng Trung. Từ bé đã nổi tiếng thần đồng, lại khảng khái, giàu khí tiết, đỗ hương nguyên, trở thành vị quan thanh liêm, chính trực, được thăng tới chức Ngự sử. Từng đi sứ Trung Quốc, Thái Lan, Triều Tiên và có công đầu trong việc du nhập, truyền bá nghệ thuật nhiếp ảnh vào Việt Nam. Ông còn là tác giả của nhiều công trình văn thơ, lịch sử, triết luận quy mô: Khắc các bộ Tùng chinh di quy, Nhị vị tập; Soạn các sách Hoàng Trung thi văn sao, Khang Hy canh chức đồ, Tứ thập bát hiếu kỷ sự tân biên, Việt sử thánh huấn diễn nghĩa, Nữ giới diễn ca…

Lưu Quang Thuận (1921-1981): Sinh năm Tân Dậu, quê Đà Nẵng, nhà thơ, nhà soạn kịch. Sinh trưởng trong một gia đình trí thức, thuở nhỏ học ở Đà Nẵng, Huế. Từ năm 1937 vào Nam, vừa mưu sinh vừa sáng tác văn chương đăng trên báo chí Sài Gòn. Năm 1943 ra Hà Nội, tiếp tục viết báo, làm thơ, soạn kịch. Từ năm 1946 tham gia kháng chiến, sáng lập Tạp chí Sân Khấu và Nhà xuất bản Hoa Lư, từng làm Giám đốc Việt Nam thư ấn cục và công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông là nhà soạn kịch nổi tiếng với nhiều vở kịch thơ đặc sắc, được khán thính giả hâm mộ: Lữ Gia, Yến Ly, Lê Lai đổi áo, Phượng Trì thôn, Kiều Công Tiễn, Tấm Cám, Người Hoa Lư, Mối tình Điện Biên… Ông cũng là thi sĩ có bút pháp độc đáo, da diết và ấn tượng qua các tập thơ: Tóc thơm, Việt Nam yêu dấu, Lời thân ái, Mừng đất nước, Cám ơn thời gian…

Bùi Đình Diệm (1921-1988): Sinh năm Tân Dậu, quê Hà Nội, nhà thơ, bút danh Quang Dũng. Năng động, sôi nổi, kiêu hùng, yêu nước, hăng hái tham gia Cách mạng tháng Tám rồi vào bộ đội chiến đấu khắp chiến trường Bắc Bộ và say mê sáng tác thi ca. Bút pháp tài hoa và khí tiết nam nhi cùng tình cảm sâu đậm với quê hương đã giúp ông tạo nên nhiều bài thơ nổi tiếng, tràn đầy tinh thần lạc quan, lãng mạn mà hùng tráng: Tây Tiến, Đôi bờ, Đường trăng, Đôi mắt người Sơn Tây… Sau kháng chiến, ông công tác trong ngành văn hóa nghệ thuật và về làm biên tập viên Nhà xuất bản Văn học. Ông để lại các tập thơ: Một chặng đường Cao Bắc, Gương mặt Hồ Tây, Nhà đồi, Hoa lại vàng tháng chạp, Phiên chợ Bắc Hà, Mùa chim ngói dưới chân núi Ba Vì.

Bùi Đình Diệm

Danh nhân Bùi Đình Diệm

Bùi Xuân Phái (1921-1988): Sinh năm Tân Dậu, quê Hà Nội, họa sĩ sơn dầu. Xuất thân từ làng tranh Kim Hoàng, vào học ở Hà Nội rồi tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1945, chuyên vẽ tranh sơn dầu chủ đề về phố phường. Là người linh hoạt mà độc đáo, ham sáng tạo, tranh vẽ của ông đều có nét dị biệt, mang vẻ dân tộc truyền thống nhưng rất hiện đại như các bức: Cánh võng, Văn Miếu, Ô Quan Chưởng, Phố cổ Hội An,… được giới am tường nghệ thuật đánh giá cao. Những đề tài ông vẽ đã trở thành một trường phái hội họa đặc trưng của Việt Nam với tên “Phố Phái”.

                                                                         Nhân Hoài


(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Danh nhân văn nghệ Việt Nam tuổi Dậu