(Moitruong.net.vn) – Trong các vật nuôi, gà có ý nghĩa tinh thần phong phú và giá trị biểu tượng cao. Nó thể hiện vai trò gần gũi mà quan trọng, tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ, đa dạng và tích cực trong đời sống văn hóa Việt Nam.

Do được thuần dưỡng từ rất sớm, sử dụng phổ biến, mang giá trị vật chất và mật thiết. Gà tạo giá trị tinh thần phong phú, ảnh hưởng sâu rộng đến tâm linh và đời sống văn hóa của người Việt Nam. Ngay trên mặt trống đồng Đông Sơn, một hiện vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn cách đây 21 – 27 thế kỷ, đã thấy nhiều hình gà và chim hạc. Còn trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, gà chín cựa là một trong ba lễ vật thách cưới đặc biệt để vua Hùng thứ 18 có thể gả con gái Mỵ Nương của mình cho chàng trai nào mang đến trước tiên. Sang thời An Dương Vương, truyền thuyết xây thành Cổ Loa kể rằng vua Thục Phán cố công xây thành hình trôn ốc, nhưng cứ đắp được đến đâu thì đất đá lại sụt lở đến đấy. Thần Kim Quy hiện về báo cho biết ở núi Thất Diệu có con gà trắng đã sống đến ngàn năm tuổi rồi hóa yêu tinh, trù ám việc xây thành, vua liền cho rình giết được nó và sau đó việc xây thành suôn sẻ.

Đàn gà

Gà trong đời sống văn hoá

Gà là một trong 6 vật nuôi thông dụng nhất (lục súc: Gà, chó, lợn, dê, ngựa, trâu) và là thứ lễ vật quan trọng để cầu cúng, tế dâng thần thánh tại các đình đền miếu trong dịp lễ – đặc biệt. Giờ Dậu kéo dài từ 17 đến 19 giờ, là giờ gà lên chuồng, giờ mở đầu buổi tối, con người ăn tối và nghỉ ngơi. Tháng Dậu là tháng Tám âm lịch, giữa mùa thu, thời tiết đẹp và dễ chịu nhất, nhiều loài cây cối bắt đầu cho thu hoạch quả, hạt. Người ta còn cho rằng người sinh năm Gà (tuổi Dậu) thường chăm chỉ, hoạt bát, tài giỏi, thành đạt và gặp nhiều may mắn, hạnh phúc trong đời.

Ngôn ngữ luôn là nền tảng của đời sống tinh thần và văn hóa con người. Trong ngôn ngữ Việt Nam, hình ảnh gà xuất hiện rất đa dạng, linh động, diễn tả chi tiết hoặc đầy ngụ ý: “Gà nòi” thể hiện sự thuần chủng, lão luyện; “gà tồ”, “gà công nghiệp” lại chỉ người to xác mà khờ khạo, ngờ nghệch, vụng về; “gà rù”, “gà toi” ví với người yếu nản, xơ xác, ủ rũ; “tóc đuôi gà” là kiểu tóc buộc túm cho cong vồng lên; “như gà bới” chê chữ viết, bản vẽ hoặc quy hoạch, kết cấu tản mát, lộn xộn, rối tung; “gà mái gáy” chỉ hiện tượng bất thường, báo điềm gở; “gà trống nuôi con” là đàn ông góa vợ phải tự mình vất vả nuôi dạy con cái…

Gà hiện diện trong nhiều địa danh đồi núi, sông hồ, bến đảo, ga chợ… trên khắp mọi miền đất nước: Hòn Gà Chọi là biểu tượng của vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), suối Mỏ Gà ở Võ Nhai (Thái Nguyên), suối nóng Kênh Gà ở Gia Viễn (Ninh Bình), mũi đất và ngọn hải đăng Kê Gà ở Hàm Thuận Nam (Bình Thuận)… Gà vốn được dùng phổ biến làm thực phẩm và dược liệu nên tên nó cũng được đặt cho nhiều loài thực vật – nhất là những cây trồng để ăn và chế thuốc: Cây mào gà, cỏ gà, cỏ trói gà, dây máu gà, rau ruột gà…

Gà còn được lấy làm đối tượng cho hàng trăm câu ngạn ngữ, phương ngữ, tục ngữ, thành ngữ sinh động, dân dã mà thâm thúy. “Bút sa gà chết” lưu ý chuyện đã viết đã ký quyết định rồi thì không sửa đổi được nữa, phải chịu mọi rủi ro và trách nhiệm liên quan. “Con gà tức nhau tiếng gáy” chỉ tâm lý ganh đua, không chịu thua kém người khác. “Gà giò ngứa cựa” nhìn nhận người trẻ tuổi mà hung hăng, ham đối chọi, hay khiêu khích. “Vợ nhà gà chợ” là những thứ tha hồ xem xét, muốn làm gì cũng có thể được…

Gà cũng là hình ảnh tiêu biểu, đi vào văn thơ, ca nhạc, tạo nên những tác phẩm nổi tiếng thuộc nhiều thể loại và ở mọi thời đại. Trong truyện cổ tích Sọ Dừa, tiếng gà gáy hiện hữu đã mang lại sự đoàn tụ cho chàng Sọ Dừa với nàng Út. Ca dao truyền thống thì mượt mà cùng tiếng gà khi tả chốn kinh kỳ: “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”,…

Từ đầu thế kỷ 20, tiếng gà xuất hiện trong Bài ca chúc Tết thanh niên của chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu như một tiếng chuông báo niềm vui và sức sống mới, cơ hội mới: “Dậy! Dậy! Dậy!/ Bên án một tiếng gà vừa gáy/ Chim trên cây ngỏ ý chào mừng/ Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng/…/Đời đã mới, người càng nên đổi mới/ Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội/ Xúm vai vào gánh vác cựu giang sơn”. Đến cuối thế kỷ 20, hình ảnh gà bao trùm bài thơ Bức tranh gà của Trần Xuân Toàn với niềm tin vui lớn lao, lạc quan và hy vọng: “… Con gà đứng canh/ Bác thợ ngắm tranh/ Thấy lòng vỗ cánh/ Thấy đời lại xanh/…/ Con gà Việt Nam/ Gà từ trong tranh/ Gà ra cuộc đời/ Gáy lên! Gà ơi!”.

Còn trẻ em Việt Nam khi chơi trò Dung dăng dung dẻ thường thuộc lòng bài đồng dao vui nhộn: “Dung dăng dung dẻ/ Dắt trẻ đi chơi/ Đến cửa nhà trời/ Lạy cậu lạy mợ/ Cho cháu về quê/ Cho dê đi học/ Cho cóc ở nhà/ Cho gà bới bếp/ Ngồi xệp xuống đây”. Nhiều em cũng yêu thích và không thể quên bài hát Đàn gà trong sân: “Gà mà không biết gáy là con gà con/ Gà mà gáy sáng là con gà cha/ Đi lang thang trong sân giống con gà giống con gà/…/ Gà mà cục tác là mẹ gà con/ Gà mà cục tác là vợ gà cha/ Đi lang thang trong sân có con gà có con gà…”.

Hình ảnh gà trở nên sinh động, gần gũi hơn qua những trò chơi và lễ hội truyền thống. Phổ biến mà đặc sắc nhất vẫn là chọi gà. Trò chơi này hay được tổ chức trong những ngày vui, ngày hội hoặc các cuộc chơi thể thao văn hóa dân dã với cách khác nhau tùy thuộc số lượng và thành phần đối tượng tham dự. Đến cuối thế kỷ 18, Nguyễn Lữ – một trong ba thủ lĩnh quân Tây Sơn – đã sáng lập ra môn hùng kê quyền (quyền gà chọi) là bài quyền mô phỏng các kỹ thuật của gà chọi. Động tác nhanh nhạy, dũng mãnh trước đối thủ với việc sử dụng ngón tay trỏ để đâm mô phỏng hình mỏ gà, các ngón còn lại co vào như chiếc cựa gà, nhắm vào các mục tiêu hiểm như huyệt đạo, hầu, ngực… đối thủ.

Gà Đông Tảo

Gà Đông Tảo

Ở một lĩnh vực khác, tĩnh lặng nhưng phong phú, bền vững là hình tượng gà trong kiến trúc, tạo hình, trang trí. Gà được thể hiện khá đa dạng trên tranh, bia, miếu, đình, đền, chùa, rạp, nhà, công sở… với đủ loại chất liệu: Đất, đá, vữa, bạc, đồng, gỗ, mực… Và bằng nhiều kỹ thuật: Tạc, đắp, nặn, xăm, chạm, khắc, đúc, nung, vẽ… Hình tượng gà xuất hiện phổ biến trên nhiều vật dụng thời xưa của người dân và trong các đình đền, chùa miếu. Các tượng gà bằng đồng thau với niên đại cách đây 20 – 30 thế kỷ cũng được tìm thấy ở Vinh Quang và gò chùa Thông (Hà Nội), gò Chiềng Vây (Hòa Bình). Đồ gốm có hình tượng gà là một sản phẩm thấy ở nhiều làng gốm cổ truyền: Bát Tràng (Hà Nội), Phù Lãng (Bắc Ninh), Thụy Lôi (Hà Nam), Gia Thủy (Ninh Bình), Thanh Hà (Quảng Nam), Bàu Trúc (Ninh Thuận)…

Hình ảnh một số loài gà quý của Việt Nam còn được đưa vào làm biểu tượng trong các lễ hội văn hóa, thể thao quốc tế liên quan – chẳng hạn gà Hồ đã trở thành linh vật tại Đại hội Thể thao châu Á trong nhà năm 2009 (AIGs III) tổ chức tại Việt Nam: Biểu tượng vui được thiết kế với hình ảnh chú gà Hồ đang vươn mình đón ánh nắng. Chú gà mặc bộ đồ thể thao khỏe khoắn, cánh trái giang rộng chào đón bạn bè quốc tế, cánh phải hình chữ V thể hiện niềm tin chiến thắng, giữa áo là biểu tượng mặt trời đỏ Hội đồng Olympic châu Á nằm sát cổ áo tạo nên hình tượng chiếc huy chương danh giá nhất của Đại hội này.

Không chỉ với dân tộc Kinh, gà cũng đi sâu vào đời sống văn hóa của nhiều dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Người Tày và người Nùng quan niệm trong đêm giao thừa, với các vật nuôi, nếu gà kêu hoặc gáy trước tiên thì gia đình sẽ may mắn, hạnh phúc năm mới. Người Mông thì coi gà trống là cầu nối giữa thế giới con người và thế giới thần linh. Người Cơ Tu lại coi con gà là biểu hiện cho sự sống, gắn liền với ánh sáng, với mặt trời. Người Khơ Mú, cô dâu chú rể trong ngày cưới phải chìa đầu gối ra cho ông mối rỏ tiết gà tươi vào. Nếu giọt tiết chảy xuôi theo ống chân xuống thì hai vợ chồng sẽ sống hạnh phúc, hòa thuận; Còn nếu chảy lệch hẳn sang một bên hoặc chia làm hai ngả thì cuộc sống hôn nhân sẽ đối mặt với nhiều thử thách…

     Anh Hùng


(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Gà trong đời sống văn hóa Việt Nam