Chia sẻ kinh nghiệm kiểm toán hợp tác về quản lý nguồn nước tại lưu vực sông Mekong
Tài nguyên nước - Ngày đăng : 02:30, 03/12/2021
Cuộc kiểm toán hợp tác với chủ đề “Kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công” gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững có sự tham gia của 3 Cơ quan Kiểm toán Nhà nước (KTNN) tại 3/6 quốc gia thuộc lưu vực sông (LVS) Mê Công gồm Việt Nam, Thái Lan, Myanma.
Chất lượng nước có dấu hiệu ô nhiễm
Báo cáo tóm tắt kết quả kiểm toán của KTNN Việt Nam, Thái Lan và Myanma cho thấy Chính phủ các nước đã có sự quan tâm, chú trọng và đưa ra nhiều nỗ lực, giải pháp trong công tác quản lý nguồn nước sông Mê Công gắn với việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững như: Hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 phù hợp với tình hình của mỗi quốc gia; ban hành các quy định, văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng cơ sở pháp lý về quản lý tài nguyên nước; đầu tư cơ sở hạ tầng, nguồn lực cần thiết và tổ chức thực hiện giám sát, cảnh báo về số lượng, chất lượng nguồn nước; tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế các cấp về nguồn nước LVS Mê Công nhằm chia sẻ, trao đổi và thống nhất với nhau trên cơ sở cùng có lợi…
Tuy nhiên, các báo cáo kiểm toán cũng phản ánh tình trạng suy thoái nguồn nước sông Mê Công kèm theo những ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, sinh kế, đời sống của người dân đã và đang diễn ra tại cả 3 quốc gia. Kết quả kiểm toán cho thấy chất lượng nước tại một số khu vực thuộc LVS Mê Công đang có dấu hiệu ô nhiễm.
Các báo cáo kiểm toán phản ánh tình trạng suy thoái nguồn nước sông Mê Công kèm theo những ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, sinh kế, đời sống của người dân.
Tại Myanma, kết quả phân tích chất lượng nước tại 5 khu vực (bao gồm 2 khu vực thuộc dòng chính sông Mê Công và 3 khu vực thuộc dòng nhánh) phản ánh một số chỉ tiêu hóa học, sinh học vượt quy chuẩn cho phép, không phù hợp để sử dụng phục vụ mục đích sinh hoạt của người dân. Theo KTNN Myanma, nguyên nhân ban đầu được xác định là do ảnh hưởng từ chất diệt côn trùng, chất thải hóa học từ các ngành nông nghiệp và chăn nuôi, dự án khai thác mỏ, khách sạn, nhà hàng và khu vực dân cư bên bờ sông.
Tại Việt Nam, tình trạng chất lượng nước mặt, nước ngầm có dấu hiệu bị ô nhiễm vi sinh, nhiễm phèn và có độ mặn cao cũng đã xuất hiện tại một số địa phương. Đặc biệt là vào mùa khô và tại các khu vực thành thị, các khu công nghiệp nơi tập trung nhiều cơ sở chế biến, sản xuất hoặc các khu vực tiếp giáp biển. Nguyên nhân được xác định có thể là do tác động từ hoạt động xả thải trong quá trình sản xuất, sinh hoạt cũng như tình trạng suy giảm số lượng nước sông Mê Công, dẫn đến thiếu nước ngọt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khả năng tự làm sạch và rửa mặn tự nhiên của dòng sông.
Về số lượng nước, KTNN Việt Nam và Thái Lan đều ghi nhận tình trạng thiếu nước tại các quốc gia này có xu hướng ngày càng gia tăng. Trên cơ sở phân tích các số liệu đo đạc, thống kê về mực nước, số lượng nước, phù sa trong giai đoạn 2011 – 2020, KTNN Việt Nam chỉ ra lượng nước từ thượng nguồn sông Mê Công đổ về Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đang có chiều hướng suy giảm, số lượng nước năm 2020 thấp hơn 157 tỷ m3 so với cùng kỳ năm 2011; lượng phù sa, bùn cát về từ thượng nguồn năm 2020 cũng giảm tương ứng 14 triệu tấn so với năm 2017.
Trong khi đó tại Thái Lan, cơ sở dữ liệu về số lượng nước theo ngày trong giai đoạn từ 1/1/2016 đến ngày 31/5/2021 tại 6 trạm đo dọc sông Mê Công ở Thái Lan cho thấy từ năm 2019, số ngày có lượng nước ở mức cực thấp đã tăng lên đáng kể so với giai đoạn trước đó. Ngoài ra, căn cứ trên số liệu thống kê về lượng phù sa sông Mê Công trong giai đoạn 1992 – 2018 và dữ liệu khảo sát từ 24 khu vực thuộc mạng lưới sông Mê Công, KTNN Thái Lan cũng làm rõ hoạt động xả cặn là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến việc bồi tụ cặn, lắng đọng phù sa, dẫn đến sự xuất hiện của “Hiệu ứng dòng nước đói” – khi dòng chảy của sông vượt quá khả năng vận chuyển phù sa gây ra hiện tượng xói mòn lòng, bờ sông đang có xu hướng ngày càng gia tăng trong giai đoạn 1992 – 2018.
Tại Việt Nam, cơ quan KTNN đã chỉ ra mối liên hệ giữa việc suy giảm số lượng, chất lượng nước, phù sa trong nước và yếu tố biến đổi khí hậu đến hệ sinh thái, đa dạng sinh học và cuộc sống của người dân, đặc biệt là tại khu vực ĐBSCL, nơi sinh sống của hơn 17,3 triệu người, cung cấp trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản của cả nước và phụ thuộc phần lớn vào nguồn nước sông Mê Công từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Việc thiếu nước ngọt nghiêm trọng vào mùa khô cùng tình trạng xâm nhập mặn khiến cho hàng ngàn hộ dân cư sống trong điều kiện thiếu nước sinh hoạt, hàng trăm ngàn lao động phải di dời khỏi địa phương để tìm kiếm việc làm, phá hủy trên 500.000ha cây trồng, 1.500.000ha đất có dấu hiệu suy thoái, trên 2.000 vụ sạt lở, sụt lún với thiệt hại ước tính lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Bên cạnh đó, sự suy giảm về trữ lượng thủy sản tự nhiên và số lượng nhiều loài sinh vật, thủy sản đặc trưng của sông Mê Công tại Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã được ghi nhận tại Báo cáo kiểm toán.
Công tác quản lý thiếu chặt chẽ
Một số kết quả khác ghi nhận, trong công tác quản lý tài nguyên nước, gắn với việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững cũng đã được các cơ quan KTNN phát hiện.
Cụ thể, tại Myanma, KTNN chỉ ra Hướng dẫn phát thải chất lượng môi trường của Bộ Tài nguyên và Bảo tồn Môi trường ban hành hiện đang vận dụng các tiêu chuẩn về chất lượng nước mặt do các nước Mĩ, Trung Quốc, Thái Lan ban hành, chưa xây dựng được bộ tiêu chuẩn phù hợp với thực tiễn tại Myanma.
Tại Thái Lan, KTNN cho biết có 16 cộng đồng dân cư được khảo sát phản ánh về việc thiếu hệ thống cảnh báo đối với những biến động của dòng sông Mê Công.
Tại Việt Nam, KTNN đánh giá công tác quy hoạch tài nguyên nước, công tác tổng hợp thông tin, báo cáo tình hình thực hiện Mục tiêu cụ thể số 6.5 còn chưa kịp thời.
Đặc biệt, KTNN Việt Nam cũng ghi nhận một số khó khăn, bất cập trong việc thực hiện các Hiệp định, cam kết quốc tế về quản lý nguồn nước LVS Mê Công hiện nay như các văn bản pháp lý làm cơ sở điều tiết các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên dòng chính và dòng nhánh chưa đầy đủ; thiếu các điều khoản cụ thể để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên MRC; thiếu các chỉ tiêu, hoạt động liên quan đến đánh giá tác động môi trường và tình hình thực hiện các Mục tiêu PTBV về quản lý tổng hợp tài nguyên nước LVS…
Qua kiểm toán, các cơ quan KTNN của 3 quốc gia đã đưa các cảnh báo về nguy cơ, rủi ro và hệ quả của tình trạng suy thoái tài nguyên nước sông Mê Công, cùng với đó là những kiến nghị và giải pháp hữu ích, có tính khả thi cao trực tiếp đến Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền liên quan. Các Báo cáo cho biết, những kết quả và kiến nghị kiểm toán sẽ góp phần quan trọng trong việc khắc phục những tồn tại, hạn chế và tăng cường tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý tài nguyên nước, gắn với việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vũng của từng quốc gia nói riêng và toàn thể cộng đồng LVS Mê Công nói chung.
Đánh giá về kết quả cuộc kiểm toán chung, ông Prajuck Boonyoung, Cơ quan KTTN Vương quốc Thái Lan nhấn mạnh, KTTN Việt Nam với tư cách là Trưởng dự án đã đóng góp tích cực trong việc thúc đẩy dự án kiểm toán hợp tác về công tác quản lý nguồn nước tại lưu vực sông Mê Công thành công, với sự hợp tác và hỗ trợ của các SAI Myanmar, Indonesia, Malaysia, trong điều kiện còn hạn chế và có nhiều thách thức trong nước khi đối mặt với đại dịch COVID–19. Cuộc kiểm toán cũng học hỏi các kỹ thuật mới của Mô hình kiểm toán các Mục tiêu phát triển bền vững và các khóa đào tạo về kiểm toán hoạt động, kiểm toán môi trường liên quan đến các Mục tiêu phát triển bền vững.
Phó Tổng KTTN Việt Nam Doãn Anh Thơ cho biết, việc tổ chức Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm kiểm toán hợp tác về công tác quản lý nguồn nước tại LVS Mê Công góp phần thúc đẩy vai trò của Tổ chức các Cơ quan kiểm toán tối cao châu Á nói chung và các thành viên nói riêng trong lĩnh vực kiểm toán hợp tác việc quản lý nguồn nước, đồng thời đóng góp vào việc thực hiện Chương trình nghị sự của Tổ chức các Cơ quan kiểm toán tối cao châu Á về thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trong Tuyên bố Băng Cốc và Kế hoạch chiến lược 2022-2027.
Thục Chi