Sốt xuất huyết có nguy hiểm hay không?
Y tế - Ngày đăng : 01:00, 18/07/2019
Cùng với dịch sởi, hiện nay, dịch sốt xuất bắt đầu quay trở lại và xu hướng tăng nhanh hơn so với mọi năm tại các tỉnh phía Nam.
Sốt xuất huyết có nguy hiểm không?
Tính đến thời điểm này, bệnh sốt xuất huyết vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vắc xin phòng bệnh. Đáng lo ngại hơn, bệnh sốt xuất huyết rất dễ lây làn và bùng phát thành dịch bệnh lớn khiến cho công tác dập dịch và phòng ngừa bệnh trở nên khó khăn. Sốt xuất huyết có thể gây tử vong nhất là đối với trẻ em.
Bệnh sốt xuất huyết do virus Dengue gây ra với 4 típ gây bệnh được ký hiệu là D1, D2, D3, D4. Cả 4 típ gây bệnh này đều gặp ở Việt Nam và luân phiên gây dịch. Do miễn dịch được tạo thành sau khi mắc bệnh chỉ có tính đặc hiệu đối với từng típ nên người mắc bệnh sốt xuất huyết rối vẫn có thể mắc bệnh lần 2,3 bởi những típ khác nhau.
Đa số các trường hợp điều trị khỏi bệnh không có biến chứng. Tuy nhiên, nếu không được điều trị sớm và đúng cách, bệnh sốt xuất huyết có thể gây những biến chứng nguy hiểm như sốc, trụy tim mạch… Những biến chứng của bệnh sốt xuất huyết thường xảy ra ở ngày 4 – 6 của bệnh.
Ảnh minh họa
Biến chứng thường xảy ra khi đã hạ sốt
Bệnh sốt xuất huyết phát triển theo ba giai đoạn: giai đoạn ủ bệnh, giai đoạn sốt Dengue – giai đoạn nguy hiểm – giai đoạn hồi phục. Sau giai đoạn sốt với triệu chứng sốt cao đột ngột, liên tục; nhức đầu, chán ăn, buồn nôn; da sung huyết; đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt; có chấm xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam…
Người bệnh bị mắc sốt xuất huyết thường chuyển sang giai đoạn nguy hiểm sau đó khoảng 3 đến 7 ngày; đây là giai đoạn cần phải xem xét để có biện pháp xử trí phù hợp nhằm hạn chế những hậu quả xấu xảy ra.
Ở giai đoạn này người bệnh có thể còn sốt hoặc đã giảm sốt và có các biểu hiện như: thoát huyết tương do tăng tính thấm thành mạch, thường kéo dài từ 24 đến 48 giờ; tràn dịch màng phổi, mô kẽ, màng bụng, phù nề Ȋmi mắt, gan to và có thể đau.
Nếu bị thoát huyết tương nhiều sẽ dẫn đến tình trạng sốc với các biểu hiện lâm sàng như vật vã, bứt rứt hoặc li bì; lạnh các đầu chi, da lạnh ẩm; mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt, hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu bằng hoặc dưới 20 mmHg, huyết áp tụt hoặc không đo được; đi tiểu ít…
Thảo Trang (T/h)