Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân: Cần đổi mới cơ chế chính sách, pháp luật để thực hiện hiệu quả hơn công tác bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường - Ngày đăng : 07:00, 25/01/2020
PV:Trong năm 2019, công tác quản lý nhà nước về môi trường đã có những chuyển biến tích cực; xin Thứ trưởng cho biết một số kết quả cơ bản đạt được của công tác bảo vệ môi trường trong năm qua?
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Năm 2019 có nhiều ý nghĩa quan trọng, được coi là năm “bứt phá” để tăng tốc phát triển kinh tế, chuẩn bị về đích cho cả giai đoạn 2016 – 2021, tiến tới các mục tiêu dài hạn hơn. Ngay từ đầu năm, Bộ đã chỉ đạo tập trung xây dựng, ban hành Chương trình công tác năm 2019 của toàn ngành với các mục tiêu, nội dung nhiệm vụ cụ thể. Vì vậy, công tác BVMT đã đạt được kết quả quan trọng sau:
Trong năm 2019, Bộ TN&MT đã trình Chính phủ ban hành 03 Nghị định; ban hành 02 Thông tư nhằm tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, cộng đồng, xã hội; đang triển khai xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, 01 Nghị định, 02 Thông tư, 03 nhiệm vụ lập Quy hoạch, 02 Đề án; đề xuất sửa đổi, bổ sung 08 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường theo định hướng hội nhập quốc tế, dựa trên kinh nghiệm của các nước tiên tiến và phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam làm công cụ quản lý môi trường đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Ông Võ Tuấn Nhân – Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về BVMT được đẩy mạnh, vì thế ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp có nhiều chuyển biến, đã dần chuyển từ đối phó sang ý thức tự giác thực hiện. Năm 2019, đã thành lập 18 Đoàn thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường trên địa bàn 20 tỉnh/thành phố của cả nước với tổng số cơ sở được thanh tra là 322 cơ sở; đã ban hành 69 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng mức phạt tiền là trên 20 tỷ đồng. Việc thanh tra đột xuất và xử lý vi phạm pháp luật về BVMT dựa trên phản ánh của các cơ quan báo chí, cộng đồng và người dân cũng đã được thực hiện, như thanh tra đột xuất việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với Công ty TNHH Mía đường, cồn Long Mỹ Phát, tỉnh Hậu Giang; Công ty TNHH MTV Hapaco Đông Bắc, tỉnh Hòa Bình; Công ty TNHH Đầu tư Phát triển MHD Việt Nam; Công ty TNHH AB Mauri Việt Nam tại tỉnh Đồng Nai… đã kịp thời ngăn chặn ô nhiễm môi trường lan ra trên diện rộng hoặc sự cố môi trường.
Tăng cường kiểm tra việc hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật về BVMT của các khu, cụm công nghiệp trên cả nước. Đã tổ chức Đoàn công tác liên ngành thanh tra đột xuất đối với tất cả các KCN, CCN, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề có lưu lượng nước thải lớn trên lưu vực sông Nhuệ, sông Châu Giang thuộc địa bàn tỉnh Hà Nam và thành phố Hà Nội. Tiếp tục theo dõi, đôn đốc các địa phương xử lý triệt để ô nhiễm tại 47 làng nghề ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng, đến thời điểm hiện nay, có 28/47 làng nghề có đề án (hoặc phương án) xử lý ô nhiễm được cấp có thẩm quyền phê duyệt; 18/47 làng nghề đang triển khai dự án đầu tư; 01 làng nghề ngừng hoạt động; tích cực đẩy mạnh việc thực hiện tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới.
Bộ TN&MT đã chủ động phối hợp chặt chẽ với UBND TP. Hà Nội thực hiện quan trắc, đánh giá, cảnh báo tình hình ô nhiễm môi trường sau sự cố cháy kho hóa chất của Nhà máy Bóng đèn, Phích nước Rạng Đông; thực hiện quan trắc, giám sát, hướng dẫn các địa phương thực hiện các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí tại các thành phố lớn, nhất là tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; kiểm tra, hướng dẫn các địa phương việc xử lý, tiêu hủy lợn chết do dịch tả lợn Châu Phi bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường; đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn các địa phương giải quyết các thông tin, vụ việc về ô nhiễm môi trường qua phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng và người dân thông qua đường dây nóng về ô nhiễm môi trường, góp phần tạo được niềm tin trong nhân dân đối với công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường
Tích cực triển khai Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2019 của Chính phủ về giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn: Bộ TN&MT đã tổ chức kiểm tra, đánh giá công tác quản lý chất thải rắn trên phạm vi cả nước; tổ chức các hội thảo “Quản lý nhà nước về chất thải rắn”, Hội thảo khoa học “Mô hình quản lý và công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt” nhằm thu thập, tổng hợp thông tin, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước về chất thải rắn.
Đẩy mạnh phong trào chống rác thải nhựa, sử dụng túi nilon khó phân hủy, sử dụng một lần: Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì lễ phát động quốc gia về chống rác thải nhựa, có thư kêu gọi các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư hưởng ứng phong trào chống rác thải nhựa… đã góp phần nâng cao ý thức, hành động của các tổ chức, cá nhân trong việc hạn chế sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần, túi nilon khó phân hủy trong toàn xã hội.
PV:Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế nào mà Bộ TN&MT sẽ tiếp tục tập trung giải quyết trong năm mới 2020, thưa Thứ trưởng?
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Bên cạnh kết quả đã đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận vấn đề môi trường và công tác BVMT ở nước ta vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, bất cập cần tập trung khắc phục trong thời gian tới:
Lượng chất thải rắn phát sinh tiếp tục gia tăng mạnh; quản lý chất thải rắn sinh hoạt còn nhiều yếu kém, hầu hết rác thải chưa được phân loại tại nguồn, năng lực thu gom còn nhiều hạn chế, tỉ lệ tái sử dụng và tái chế rác thải sinh hoạt được xử lý thấp; thu gom và xử lý chất thải nguy hại còn bất cập về hạ tầng kỹ thuật và công nghệ; chất lượng môi trường không khí ở các đô thị, khu vực đông dân cư có xu hướng suy giảm. Lượng rác thải nhựa và túi nilon khó phân hủy sử dụng một lần ngày càng gia tăng, thải bỏ ra môi trường, trôi nổi trong các nguồn nước mặt, vùng biển gây ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi.
Ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, nhất là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh diễn biến phức tạp tại một số thời điểm trong ngày và một số ngày trong năm, nhất là khi có sự kết hợp giữa các yếu tố khí hậu, hiện tượng thời tiết sương mù với sự gia tăng các nguồn phát thải ô nhiễm không khí. Chỉ số chất lượng không khí (AQI) có thời điểm vượt ngưỡng an toàn, nguy hại tới sức khỏe người dân, nhất là bụi mịn PM 2.5.
Nước thải đô thị phát sinh ngày càng lớn, hạ tầng thu gom, xử lý chưa đáp ứng yêu cầu, hầu hết chưa qua xử lý, xả ra môi trường gây ô nhiễm nguồn nước mặt trong các đô thị, khu dân cư. Ô nhiễm nguồn nước mặt tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là nguồn nước mặt trong các đô thị, khu dân cư, các lưu vực sông Nhuệ – Đáy, sông Cầu, sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Sài Gòn – Đồng Nai, các sông đi qua các khu kinh tế, khu công nghệ cao, KCN, CCN, làng nghề.
Nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa được xử lý triệt để, đặc biệt là các cơ sở công ích; nhiều dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; vẫn còn nhiều KCN hạ tầng thu gom, xử lý nước thải còn hạn chế; hầu hết các CCN chưa có hạ tầng BVMT; nhiều làng nghề gây ô nhiễm môi trường chưa được xử lý, giải quyết triệt để. Chất lượng và tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tiếp tục suy giảm.
PV:Xin Thứ trưởng cho biết nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế nêu trên là gì?
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Các tồn tại, hạn chế nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan:
Quy mô nền kinh tế, dân số ngày càng lớn, mức độ công nghiệp hóa, đô thị hóa ngày càng cao, khai thác tài nguyên, phát sinh các nguồn gây ô nhiễm, chất thải ngày càng lớn dẫn đến áp lực lên môi trường ngày càng cao, tác động xấu đến chất lượng môi trường, làm suy giảm đa dạng sinh học.
Vẫn còn tư tưởng ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư bằng mọi giá, xem nhẹ yêu cầu BVMT, quan điểm không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế chưa được thực hiện triệt để; ý thức, trách nhiệm BVMT của người dân và doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; việc thực thi pháp luật BVMT hiệu quả chưa cao.
Môi trường nước ta còn chịu tác động bởi biến đổi khí hậu, các vấn đề môi trường theo dòng thương mại quốc tế và ô nhiễm xuyên biên giới.
Nguyên nhân chủ quan chủ yếu bao gồm:
Hệ thống chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan còn chồng chéo, bất cập, chưa theo kịp với những diễn biến nhanh của các vấn đề môi trường và yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về BVMT cả ở trung ương và địa phương còn một số bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý đối với một lĩnh vực lớn, phức tạp, nhạy cảm ngày một gia tăng đang đặt ra hiện nay; cơ quan quản lý môi trường địa phương còn bị phụ thuộc vào các quyết định thu hút đầu tư dự án của Ủy ban nhân dân các cấp, chưa phát huy tính độc lập trong công tác BVMT.
Đầu tư cho bảo vệ môi trường mặc dù bước đầu đã có chuyển biến tích cực, song còn ở mức thấp; việc sử dụng nguồn chi sự nghiệp môi trường hiệu quả chưa cao; các quy định thuế, phí về bảo vệ môi trường còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu về xử lý, giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường phát sinh thực tế; chưa tạo được cơ chế để thu hút tài chính đầu tư vào lĩnh vực môi trường, xử lý ô nhiễm;
Các dự án thuộc loại hình sản xuất có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường vẫn còn xu hướng đầu tư vào Việt Nam. Năng lực phòng ngừa, ứng phó với các sự cố môi trường của các doanh nghiệp ở một số địa phương còn nhiều bất cập.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, xây dựng ý thức BVMT còn hạn chế, chưa hiệu quả.
PV:Xin Thứ trưởng cho biết trong năm 2020,Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ có những biện pháp chỉ đạo cụ thể như thế nào để quản lý môi trường một cách bền vững?
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân: Bước sang năm 2020, năm quyết định đối với việc hoàn thành các mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn 2016 – 2021, lĩnh vực môi trường cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, nhưng tập trung một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:
Tập trung sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường 2014, đồng thời cần tiến hành xây dựng ngay các văn bản hướng dẫn dưới luật để đảm bảo luật có thể được triển khai ngay sau khi có hiệu lực thi hành; tiến hành rà soát, xây dựng, trình ban hành bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường một cách đồng bộ, có tính hệ thống và tương đồng với các tiêu chuẩn, quy chuẩn của một số nước phát triển trong khu vực cũng như quốc tế.
Hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý chất thải rắn theo hướng thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn trên phạm vi cả nước và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề rác thải và xử lý rác thải trên địa bàn; hình thành cơ chế, chính sách, công nghệ thực hiện xã hội hoá công tác thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng lượng từ chất thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy về bảo vệ môi trường để bảo đảm thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn theo Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2019 của Chính phủ.
Quy hoạch và phát triển mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia bảo đảm xây dựng hệ thống quan trắc và cảnh báo chất lượng môi trường đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương để giám sát chặt chẽ, cảnh báo chất lượng môi trường trên phạm vi cả nước.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường; kiên quyết không cấp phép cho các dự án có loại hình, công nghệ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, các dự án có tác động đến sinh thái và rừng tự nhiên của Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong việc xử lý, giải quyết các vụ việc, điểm nóng về ô nhiễm môi trường, nhất là giải quyết tình trạng ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn, nước thải sinh hoạt đô thị, khu, cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông; rà soát kiên quyết yêu cầu chủ đầu tư các KCN, CCN xây dựng, vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung, buộc các đối tượng có quy mô xả thải lớn lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải, khí thải tự động liên tục theo quy định của pháp luật, truyền số liệu trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường.
Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường; tăng cường cơ chế giám sát về BVMT đối với các dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây sự cố, ô nhiễm môi trường cao, bảo đảm không để xảy ra sự cố môi trường nghiêm trọng, các dự án, cơ sở này vận hành an toàn về môi trường. Thực hiện các đợt thanh tra theo hình thức cuốn chiếu, xoay vòng, tập trung vào các đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường phải thanh tra, kiểm tra, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
Đẩy mạnh việc đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác BVMT, ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và hiện trạng chất thải của nước ta.
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về BVMT; phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường; cung cấp thông tin kịp thời về BVMT trên các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng. Thực hiện Chương trình truyền thông mạnh mẽ để tạo thành phong trào rộng lớn trong toàn dân người dân tham gia BVMT, nhất là trong phân loại rác thải tại nguồn, hạn chế sử dụng nhựa, túi nilon khó phân hủy, sử dụng một lần, tạo được phong trào, nhân rộng các điển hình, khu vực, mô hình, cách làm hay, tốt về môi trường; thúc đẩy các nhân tố tích cực, điểm sáng về môi trường nhằm tạo sự chuyển biến, lan tỏa tích cực về bảo vệ môi trường.
PV:Xin chân thành cám ơn Thứ trưởng, chúc Thứ trưởng và ngành Tài nguyên và Môi trường gặt hái được nhiều thành công trong năm 2020!
Khánh Toàn – Hùng Thắng (thực hiện)