Tháo điểm nghẽn để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long trước biến đổi khí hậu

Kinh tế - Ngày đăng : 13:00, 02/08/2022

Theo Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2022 (AMDER 2022), khu vực này đang phải đối diện nhiều thách thức lớn nằm ở ba phương diện: kinh tế, xã hội và môi trường.

Ngày 1/8, tại Cần Thơ, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Lễ Công bố Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2022 (AMDER 2022).

Báo cáo Thường niên 2022 là công trình nghiên cứu hợp tác bởi VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (FSPPM) với sự tham gia các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực.

Đây là năm thứ hai Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng Bằng Sông Cửu Long được thực hiện và là báo cáo đầy đủ và duy nhất về một vùng kinh tế trên cả nước.

Báo cáo thường niên gồm các nội dung sau: Tổng quan về kinh tế thế giới và trong nước; cập nhật kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long và mục tiêu điểm sẽ tập trung vào một số chủ đề có tính chọn lọc, đặc biệt quan trọng đối với Đồng bằng sông Cửu Long.

Về kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long trong năm qua, kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm sáng lớn nhất của Đồng bằng sông Cửu Long trong hai năm 2020-2021 là nông nghiệp. Bất chấp dịch bệnh trong năm 2021, khu vực nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long vẫn tăng trưởng mạnh (3,4%), cao hơn hẳn so với mặt bằng chung của cả nước. Xuất khẩu nông thủy sản của Vùng đóng vai trò then chốt trong việc duy trì thặng dư thương mại cho Việt Nam. Tuy nhiên, một mình ngành nông nghiệp không đủ sức vực dậy nền kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long vì khu vực công nghiệp và dịch vụ chiếm tới hơn 70% GRDP của vùng đều tăng trưởng âm, ước tính lần lượt là -0,8% và -1,8%.

phat-trien-vung-dbscl.jpg
Nông nghiệp ĐBSCL đã khẳng định được năng lực cạnh tranh của mình.

Điều đáng lưu ý là năng lực cạnh tranh nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long, trong giai đoạn 2015-2020, tốc độ tăng năng suất lao động nông nghiệp trung bình ở Đồng bằng sông Cửu Long rất cao, lên tới 9,03%/năm, gấp hơn 2 lần so với khu vực công nghiệp (4,39%) và dịch vụ (3,82%). Điều này cho thấy Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều tiềm năng chuyển đổi cơ cấu và tăng năng suất. Tất nhiên, việc hiện thực hóa tiềm năng này tùy thuộc vào chiến lược và chính sách phát triển đúng đắn.

Báo cáo chỉ ra Đồng bằng sông Cửu Long phải đối diện nhiều thách thức lớn nằm ở ba phương diện: kinh tế, xã hội và môi trường.

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Trường Đại học Fulbright Việt Nam, đồng tác giả báo cáo cho biết, Đồng bằng sông Cửu Long được giao sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, chính sách kiên quyết giữ đất lúa đã giúp Việt Nam xóa đói và trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu, nhưng lại không giúp Việt Nam trở nên thịnh vượng. Nền nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long chậm hiện đại hóa, nền nông nghiệp vẫn dựa chủ yếu vào kinh tế nông hộ với diện tích đất canh tác nhỏ và manh mún, là rào cản quan trọng cho việc chuyển trọng tâm từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Nguồn vốn đầu tư hạn chế.

Những thách thức này làm tốc độ tăng trưởng GRDP của Đồng bằng sông Cửu Long thấp, chỉ đạt 5,31%/năm trong giai đoạn 2016-2020, thấp nhất trong bốn vùng kinh tế trọng điểm. Hệ quả là Đồng bằng sông Cửu Long mặc dù giàu có về tài nguyên, phong phú về tiềm năng nhưng tiếp tục tụt hậu về mặt kinh tế.

Thách thức về phương diện xã hội là thiếu việc làm ở nông thôn. Tình trạng di cư, sự chênh lệch về mức sống và cơ hội việc làm dẫn đến luồng di cư từ Đồng bằng sông Cửu Long lên các đô thị và khu công nghiệp ở vùng Thành phố Hồ Chí Minh. Tình trạng nghèo, thu nhập bình quân đầu người của Đồng bằng sông Cửu Long trong năm 2019 là 3,9 triệu đồng/tháng, thấp hơn mức 4,2 triệu đồng/tháng của cả nước. Nguồn nhân lực, kỹ năng của lao động còn thấp.

Về phương diện môi trường, thách thức đầu tiên là các tác động từ thượng nguồn sông Mekong. Các công trình thủy điện thượng nguồn làm giảm đáng kể lượng phù sa và cát do bị các hồ chứa giữ lại. Hệ quả là gây ra sạt lở bờ sông và làm đất bạc màu, nước mặn từ biển tràn vào làm hơn một nửa diện tích tự nhiên bị nhiễm mặn.

Thứ hai là suy giảm nguồn nước, hệ thống thủy điện sông Mekong đã tác động đến đến dòng chảy, làm giảm đáng kể mực nước sông Mekong, đồng thời gây đảo lộn hệ sinh thái ven sông vùng hạ lưu.

Thứ ba là chất lượng đất trồng suy giảm, ở khu vực thượng nguồn (Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên), hệ thống đê bao và các tuyến kênh thoát lũ ra biển Tây đã ngăn không cho nước lũ vào sâu trong nội đồng và khiến đất đai ngày càng suy kiệt. Tất cả những điều này làm giảm chất lượng đất canh tác và kết quả cho thấy khoảng 30% số hộ nông nghiệp vùng ĐBSCL có đất trồng trọt bị thoái hóa.

Thách thức môi trường thứ tư là biến đổi khí hậu, giai đoạn 2030-2040 dự báo nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ tăng, lượng mưa đầu vụ Hè Thu sẽ giảm, mùa mưa sẽ bắt đầu trễ hơn, diện tích ngập do lũ sẽ tăng, áp thấp nhiệt đới và bão có xu hướng gia tăng… Những tác động này ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp, khiến cuộc sống và sinh kế của nông dân vùng ĐBSCL vốn đã khó khăn còn trở nên bấp bênh hơn.

Minh Lâm