Đánh giá “công trình xanh” có cần một hành lang pháp lý
Môi trường đô thị - Ngày đăng : 11:00, 28/09/2022
Ngày 12/5/2022 Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 385/QĐ/BXD phê duyệt kế hoạch hành động của ngành Xây dựng ứng phó với BĐKH giai đoạn 2022-2030, tầm nhìn đến 2050. Trong đó, tập trung một số nội dung về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn về công trình xanh, vật liệu xanh...
Như vậy, việc nghiên cứu đề xuất, xây dựng và áp dụng tiêu chí “kiến trúc xanh” nào cho Việt Nam là câu hỏi lớn cần được giải đáp để các công trình kiến trúc của chúng ta trong tương lai đáp ứng được các yêu cầu của công trình “Kiến trúc xanh” dựa trên cơ sở khí hậu Việt Nam kết hợp với kỹ thuật hiện đại và truyền thống văn hóa Việt.
Tổng quan Hệ thống đánh giá “Công trình xanh”
Green Building - theo định nghĩa của Hội đồng công trình xanh Hoa Kỳ (USGBC) là những công trình được thiết kế và xây dựng để giảm hoặc loại bỏ tác động xấu của chúng lên môi trường và người dân trên 5 lĩnh vực: Quy hoạch địa điểm bền vững; Bảo vệ nguồn nước và sử dụng hiệu quả nguồn nước; Sử dụng hiệu quả năng lượng và năng lượng tái tạo; Bảo tồn vật liệu và tài nguyên; Đảm bảo chất lượng môi trường trong nhà. Khái niệm kiến trúc xanh được hiểu như sau: “Kiến trúc xanh là kiến trúc sử dụng các kỹ thuật thiết kế và giải pháp về công nghệ, vật liệu, nguồn năng lượng nhằm tạo ra công trình xanh, thân thiện với môi trường, sử dụng nguồn tài nguyên hiệu quả trong suốt vòng đời của công trình đó”.
Một số nước phát triển trên thế giới đã kế tiếp nhau đưa ra các phương pháp đánh giá môi trường kiến trúc khác nhau, trong đó hệ thống đánh giá “kiến trúc xanh” được các nước Anh, Mỹ, Canada thực hiện khá thành công, đáng được nghiên cứu học hỏi. Năm 1990, Cơ quan nghiên cứu xây dựng của Anh (British Building Reseach establishment - BRE) đề xuất phương pháp đánh giá môi trường BREEAM, là “hệ thống đánh giá công trình xanh” đầu tiên trên thế giới, có ảnh hưởng lớn tới hệ thống đánh giá của nhiều nước sau này.
Hệ thống đánh giá đầu tiên của Mỹ ra đời năm 1995 gọi là LEED (Leadership in Energy and Environment Design). Tiếp đó năm 2005, họ phát triển LEED cho các công trình cải tạo và công trình mới (LEED-NC), được nhiều nước áp dụng. “Hệ thống đánh giá công trình xanh” trở thành phổ biến và lan rộng, đi vào cuộc sống của xã hội văn minh. Sau năm 2000, “hệ thống đánh giá công trình xanh” phát triển nở rộ: năm 2002 ở Nhật Bản, năm 2003 ở Trung Quốc, Hồng Kông (theo Anh, HK-BREEAM), đến nay, trên thế giới có 30 “hệ thống đánh giá công trình xanh” chính thức.
Để đánh giá và cấp chứng chỉ các Công trình đạt các cấp độ Xanh, các nước đều sử dụng “Hệ thống đánh giá công trình xanh - The GB Rating Systems (GBRS)”. Hệ thống đánh giá đầu tiên xuất hiện tại Anh năm 1990, được gọi là “Phương pháp đánh giá môi trường “Environmental Assessment Method - BREEAM”, vì vậy, nó chưa thật hoàn chỉnh. Năm 1995 ở Mỹ đưa ra hệ thống đánh giá LEED (Leadership in Energy and Environmental Design). Cho đến nay, LEED được coi là Hệ thống có uy tín và có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Trên thế giới hiện nay có trên 30 Hệ thống đánh giá “Công trình xanh”, riêng Hệ thống LEED đã có 12 phiên bản cho các loại công trình khác nhau.
Tại nước ta, thời gian gần đây, một số doanh nghiệp bất động sản cũng đã triển khai các dự án, công trình theo xu hướng này. Về ở tại chung cư Ecolife Capitol (số 58, đường Tố Hữu, quận Nam Từ Liêm), bà Nguyễn Thị Thanh (phòng P1703A1) chia sẻ: "Gia đình tôi rất ưng ý khi về sống tại đây vì căn hộ được bố trí các khoảng cách, tỷ lệ kiến trúc hợp lý để thu ánh nắng mặt trời, gió tự nhiên vào hầu hết căn hộ. Chủ đầu tư cũng sử dụng các vật liệu xây dựng (sơn, kính) thông minh, tiết kiệm năng lượng... nên tiền điện hằng tháng của gia đình vào mùa đông thường chỉ hơn 300.000 đồng, mùa hè cũng chỉ khoảng hơn 500.000 đồng...".
“Kiến tạo cuộc sống xanh” là khẩu hiệu của Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư và Thương mại Thủ đô - Capital House, chủ đầu tư dự án Ecolife Capitol.
Giám đốc Ban Nghiên cứu và phát triển Capital House Trịnh Tùng Bách cho biết: "Việc thiết kế theo xu hướng xanh tại dự án không chỉ góp phần giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị vào môi trường xung quanh, đồng thời còn giúp tiết kiệm điện năng, cư dân cũng được sống trong môi trường xanh, chất lượng sống tốt hơn...".
Phát triển công trình xanh cũng là định hướng của Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phúc Khang. Theo Tiến sĩ Lê Thị Hồng Na, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển - Công ty Phúc Khang, đến nay, đơn vị đã đưa ra thị trường 10 dự án lớn và luôn kiên định đi theo con đường phát triển dự án sinh thái - xanh. Tại các dự án này, để tăng mảng xanh, cây xanh, công viên được bố trí giữa các tòa nhà, trên mái...
Tuy nhiên, số lượng các công trình xanh còn chưa nhiều và để sở hữu cũng không dễ. Anh Phạm Anh Minh (ở số 23, phố Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm) là người đang có nhu cầu tìm mua nhà cho biết, anh rất chú ý đến những dự án xây dựng theo xu hướng xanh nhưng với nhà ở xã hội thì nguồn cung rất hạn chế, còn nhà ở thương mại thì giá thành thường cao hơn so với những dự án cùng loại nên với khả năng tài chính không dư dả rất khó tiếp cận.
Về phía các doanh nghiệp, đại diện của Capital House, Phúc Khang đều thừa nhận, việc phát triển còn khó khăn do chưa có chính sách rõ ràng, hiệu quả sử dụng nguồn vốn không cao, nhiều khách hàng cũng chưa quan tâm đến yếu tố này...
Cơ sở pháp lý “công trình xanh” ở Việt Nam
Phong trào Công trình xanh ở Việt Nam đã có những bước phát triển từ những ngày đầu với xu hướng chung của thế giới, tuy nhiên, tăng trưởng còn khá chậm và hạn chế. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XXI, việc đánh giá công trình xanh đã được Bộ Xây dựng quan tâm, Bộ Xây dựng đã giao cho Viện Kiến trúc Quốc gia, Hội Môi trường xây dựng Việt Nam xây dựng tiêu chí công trình xanh. Bên cạnh đó, Hội Kiến trúc sư Việt Nam cũng đã xây dựng bộ tiêu chí “Kiến trúc xanh” của Hội. Tổ chức VGBC là tổ chức công trình xanh thế giới tại Việt Nam cũng xây dựng hệ thống đánh giá công trình xanh LOTUS. Đến nay, hệ thống đánh giá “Công trình xanh” do Hội Môi trường sử dụng để đánh giá được 01 công trình, Hội Kiến trúc sư Việt Nam đã sử dụng bộ tiêu chí đánh giá được khoảng 40 công trình. Các tổ chức Quốc tế đã sử dụng các tiêu chí của LEED, LOTUS và EDGE đánh giá và công nhận 233 dự án “Công trình xanh” với 6.056.000m2 sàn (Theo só liệu thống kế quý II/2022 của Tổ chức Tài chính Quốc tế IFC).
Như vậy, tại Việt Nam tồn tại song song 5 bộ tiêu chí đánh giá “Công trình xanh”, nhưng đến nay chưa có hệ thống đánh giá nào tại Việt Nam được các cơ quan quản lý Nhà nước chính thức ban hành như một công cụ có tính pháp lý để đánh giá, quản lý “Công trình xanh”. Tuy nhiên, trong các Quy chuẩn, tiêu chuẩn của Việt Nam đã có những quy định đáp ứng các tiêu chí “Công trình xanh”, sau đây xin giới thiệu các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường, về quy hoạch - kiến trúc có quy định những thông số kỹ thuật cho các công trình hướng đến “Công trình xanh”.
Quy chuẩn xây dựng Việt Nam QCVN 01:2021, QCVN 09:2017/BXD có các yêu cầu: Trong quy hoạch và thiết kế công trình, không được phá hoại hiện vật văn hóa, giữ gìn thiên nhiên, giữ gìn độ ẩm của đất, bảo vệ ruộng đất cơ bản, rừng cây và những khu bảo tồn khác. Khu đất xây dựng không bị ảnh hưởng do lũ lụt, đất đá trôi từ trên núi và thổ nhưỡng có chứa Radon. Trong phạm vi sân bãi xây dựng không có nguy hiểm về sóng điện từ, cháy, nổ và các chất độc hại khác. Không gây ô nhiễm ánh sáng đối với các công trình kiến trúc xung quanh, không ảnh hưởng đến nhu cầu chiếu nắng của các công trình nhà ở xung quanh. Không được có nguồn ô nhiễm lớn hơn định mức giới hạn cho phép trong tiêu chuẩn. Trong quá trình thi công phải có biện pháp bảo vệ môi trường, giám sát những ô nhiễm do thi công gây ra và những ảnh hưởng đối với khu vực xung quanh.
Tiết kiệm năng lượng và tận dụng tài nguyên được quy định trong các quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành.
Chỉ tiêu tính năng nhiệt của kết cấu bao che phải phù hợp với Quy chuẩn QCVN 09:2017/BXD và tiêu chuẩn TCVN 4605-98.
Yêu cầu thiết kế hệ thống điều hòa không khí và sưởi ấm phải phù hợp với tiêu chuẩn TCVN:2008 “Thông gió điều hòa không khí và thiết bị đun nước nóng”, tiêu chuẩn TCVN 40189:2004 “Tiêu chuẩn thiết kế tiết kiệm năng lượng công trình công cộng”
Mật độ công suất chiếu sáng và độ rọi tại các gian phòng, trường sở không được lớn hơn định mức giới hạn cho phép trong các tiêu chuẩn TCXD 16-86; TCXD 29-91; TCVN 7114-1:2008.
Tiết kiệm nước và tận dụng tài nguyên nước, theo các quy định khi lập dự án phải có phương án quy hoạch hệ thống nước có tính đến sử dụng tổng hợp các loại nguồn nước và tuân thủ các tiêu chuẩn TCXDVN 33:2006 và TCVN 4513-88. Trong đó, quy định thiết kế hệ thống cấp thoát nước hợp lý, hoàn chỉnh. Phải có biện pháp phòng chống rò rỉ trong hệ thống đường ống một cách hiệu quả. Hệ thống cấp nước vệ sinh trong công trình phải sử dụng thiết bị tiết kiệm nước. Khi sử dụng những nguồn nước mưa, nước tuần hoàn phải sử dụng các thiết bị đảm bảo an toàn nguồn nước, không được gây ảnh hưởng xấu tới môi trường xung quanh và sức khỏe dân cư.
Tiết kiệm vật liệu và lợi dụng tài nguyên vật liệu dựa theo quy chuẩn QCXDVN 05:2008/BXD và tiêu chuẩn TCXDVN 397:2007. Quy định lượng chất độc chứa trong vật liệu xây dựng phải đảm bảo, giảm bớt những yếu tố tạo hình kiến trúc, không dùng những cấu kiện trang trí với số lượng lớn.
Về chất lượng môi trường trong nhà các công trình kiến trúc sử dụng điều hòa không khí tập trung, nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió trong phòng phải phù hợp với Quy chuẩn QCXDVN 09:2005/BXD và tiêu chuẩn TCVN 5508:2009, TCVN 13512:2022.
Công trình kiến trúc có sử dụng điều hòa không khí tập trung, lưu lượng gió tươi phải phù hợp với tiêu chuẩn TCVN 5067:1995, TCVN 5293:1995 và TCVN 6502:1999.
Nồng độ các chất gây ô nhiễm không khí trong phòng như An-hê-rit A tự do, Ben-zen, A-mô-niac, Ra-đon và hệ thống chất tẩy rửa TVOC phải phù hợp với tiêu chuẩn TCVN 5937:2005 và TCVN 5938:2005.
Mức ồn trong khách sạn và công sở phải nằm trong giới hạn cho phép của tiêu chuẩn TCXDVN 277:2002 và TCXDVN 175:2005.
Độ rọi, hệ số chói lóa, chỉ số truyền mầu bên trong các công trình phải thỏa mãn yêu cầu liên quan trong tiêu chuẩn TCVN 7192-1:2002.
Vấn đề quản lý vận hành đã đặt ra các chế độ quản lý việc thực thi tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước, tiết kiệm vật liệu và xanh hóa theo quy định tại mục 9 Quy chuẩn QCVN 09:2017/BXD.
Tập trung phân loại và xử lý phế thải, trong quá trình tập trung phân loại và xử lý không để xảy ra ô nhiễm lần thứ hai và phải tuân thủ QCVN 25:2009/BTNMT và TCVN 6772:2000.
Hiện nay, các công cụ đánh giá “Công trình xanh” phục vụ công tác quản lý Nhà nước nói chung chưa có một công cụ mang tính pháp lý, điều này dẫn đến việc chứng nhận các công trình xanh đang phát triển tự phát, các công trình được công nhận là công trình xanh sau đó cũng không được giám sát, kiểm tra cũng như duy trì thương hiệu, rất nhiều công trình gắn mác “xanh, sinh thái”, không chứng minh được các số liệu cho thấy đã đóng góp tích cực cho môi trường hay xã hội, các công trình này chỉ xanh ở bề nổi, trồng cây xanh một cách lạm dụng lên mái, hay mặt tiền mà không hề có sự chăm sóc, bảo dưỡng, vận hành hợp lý, ngoài ra, còn lạm dụng các loại thiết bị và vật liệu nhập khẩu đắt tiền, gây tốn kém nguồn năng lượng và chi phí hơn gấp nhiều lần, không hề có các giải pháp tổng thể để hỗ trợ một môi trường sống thật sự xanh hơn.