Rác thải nhựa đại dương những con số đáng báo động
Emagazines - Ngày đăng : 20:00, 04/10/2022
Ô nhiễm rác thải nhựa là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với môi trường biển và đại dương trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam.
Theo Báo cáo của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) về thực trạng rác thải nhựa đại dương, hiện rác thải nhựa đã xuất hiện ở cả những vùng xa xôi nhất và những vùng nguyên sinh của trái đất như vùng băng Bắc Cực và trong các loài cá sinh sống tại khu vực sâu nhất của đại dương là Rãnh Mariana. Báo cáo này được tổng hợp từ hơn 2.000 công trình nghiên cứu riêng về những tác động tiêu cực của rác thải nhựa đối với các đại dương, đa đạng sinh học và sinh thái biển.
Cũng theo báo cáo này, mỗi năm có khoảng từ 19 đến 23 triệu tấn rác thải nhựa đổ ra biển, trong đó, phần lớn là sản phẩm nhựa dùng 1 lần. Rác này chiếm tới 60% nguyên nhân gây ô nhiễm đại dương.
Các nghiên cứu cho thấy, rác thải nhựa trong đại dương có nguồn gốc từ đất liền, bị cuốn theo những dòng chảy từ các đô thị, do tràn cống, xả rác, chất thải từ các hoạt động công nghiệp và xây dựng...
Ô nhiễm nhựa trên đại dương cũng bắt nguồn từ ngành đánh bắt cá, các hoạt động hàng hải và nuôi trồng thủy sản. Dưới tác động của bức xạ tia cực tím, gió, dòng chảy và các yếu tố tự nhiên khác, nhựa bị phân hủy thành các hạt nhỏ được gọi là hạt vi nhựa hoặc nano nhựa. Kích thước nhỏ khiến chúng dễ dàng bị các sinh vật biển vô tình ăn phải.
Ô nhiễm nhựa đại dương đã tác động đến sự sống của các loài sinh vật biển như rùa biển, cá voi, chim biển, cá, rạn san hô và vô số loài sinh vật biển và môi trường sống khác.
Trên thực tế, các nhà khoa học ước tính rằng hơn một nửa số rùa biển trên thế giới và gần như mọi loài chim biển trên Trái đất đã ăn nhựa trong suốt cuộc đời của chúng. Ô nhiễm nhựa cũng ảnh hưởng đến cảnh quan của những bãi biển đẹp trên toàn thế giới, ngay cả ở những vùng xa xôi như đảo san hô Midway.
Báo cáo của WWF cho biết, 88% các loài sinh vật biển mà tổ chức này nghiên cứu bị ảnh hưởng bởi sự ô nhiễm nhựa rất nghiêm trọng. Ít nhất có 2.144 loài phải sống trong môi trường ô nhiễm nhựa. Báo cáo cũng dự đoán sản lượng nhựa sẽ tăng gấp đôi vào năm 2040, khiến lượng rác thải nhựa trên đại dương tăng gấp 4 lần. Hiện mỗi năm có khoảng 14 triệu tấn rác thải nhựa trôi ra đại dương.
Một trong những lý do khiến ô nhiễm nhựa vẫn là một vấn đề nan giải đơn giản bởi, rác thải nhựa bị phân hủy thành những hạt nhựa nhỏ hơn gọi là hạt vi nhựa mà được xác định là nguồn gây ô nhiễm môi trường.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, ước tính có khoảng 3,1 triệu tấn chất thải nhựa được thải ra trên đất liền hàng năm ở Việt Nam. Ít nhất 10% trong số chất thải chưa được quản lý tốt này bị rò rỉ vào đường thủy.
Hiện tại, Việt Nam là nước có tỷ lệ rác thải nhựa đại dương cao, cộng với ô nhiễm nguồn nước nên dự kiến Việt Nam thiệt hại 3,5% tổng sản phẩm nội địa (GDP) vào năm 2035, cùng với đó là dự báo biến đổi khí hậu và thiên tai sẽ ảnh hưởng tới 11% GDP của Việt Nam đến năm 2030.
Tác động tiêu cực các hoạt động phát triển của con người đến môi trường, các hệ sinh thái trên lưu vực sông và ở vùng bờ biển ngày càng nhiều, đặc biệt khi dân số, nhu cầu tiêu thụ tài nguyên ngày càng gia tăng.
Lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn và vùng bờ Quảng Nam-Đà Nẵng đóng vai trò quan trọng đối với đời sống và phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Bên cạnh nguồn tài nguyên nước, lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn và vùng bờ Quảng Nam-Đà Nẵng còn rất nhiều tài nguyên khác như khoáng sản, rừng, nguồn lợi thủy sản, du lịch... làm cơ sở cho đẩy mạnh phát triển kinh tế, du lịch, tiềm năng phát triển thủy điện… Đây chính là những động lực cho tăng trưởng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và trở thành hình mẫu cho tương lai phát triển chuỗi đô thị miền Trung (đô thị hướng biển).
Theo bà Bùi Thị Thu Hiền, điều phối viên Chương trình Biển và Vùng bờ, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế (IUCN) tại Việt Nam, trong quá trình khảo sát thực địa tại lưu vực và vùng bờ trên, nghiên cứu nhận thấy công tác quản lý chất thải rắn còn kém hiệu quả.
Việc dễ dàng sử dụng nhựa dùng một lần cùng với mức độ nhận thức thấp của người dân là các lý do chính dẫn đến phát thải rác nhựa ra môi trường, vùng nước và từ đó ra môi trường đại dương. Các bên tái chế không chính thức (thu gom, mua, bán đồng nát) chỉ thu gom rác thải nhựa có giá trị cao, không có tác động đáng kể đối với giảm phát thải nhựa tại nguồn.
Hiện nay, các bãi rác thải tại các khu vực trên đều không còn nhiều diện tích để chứa rác, dẫn đến nguy cơ cao phát thải rác thải rắn, đặc biệt là rác thải nhựa ra môi trường, từ đó ra các vùng nước và môi trường biển. Ngoài ra, phân bổ tài chính cho các quận, huyện để tổ chức, quản lý rác thải đúng cách còn thiếu. Khu vực nông thôn và miền núi vẫn còn vấn nạn đổ rác trái phép ra đất trống, bờ sông, bờ biển. Đồng thời, tại các khu vực này, việc sử dụng túi, bao bì nhựa dùng một lần có xu hướng tăng cao do tiện lợi, giá thành thấp, dẫn đến gia tăng rác thải nhựa dễ đi vào môi trường và các đường thủy.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế tại Việt Nam chỉ ra rằng, ở khu vục này, các dịch vụ chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị chưa tích hợp việc phân loại nhựa, các vật liệu tái chế. Các cơ sở thu gom cũng không thu nhận vật liệu nhựa có giá trị thị trường thấp, không có giá trị.
Hiện, lượng lớn rác thải rắn từ thượng nguồn lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn đang gây ảnh hưởng đến các cộng đồng ở hạ nguồn thuộc tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là vào mùa mưa, mùa lũ. Cùng với đó, nhận thức của người dân về rác thải đổ ra biển và ô nhiễm nhựa còn thấp; các khung quy định và chính sách nhằm hạn chế, giảm thiểu sản xuất và sử dụng nhựa (đặc biệt là nhựa dùng một lần) chưa được thực thi.
Để triển khai quản lý rác thải đổ ra biển từ nguồn, theo bà Ruth Mathews, Quản lý cấp cao Viện nước Quốc tế Stockholm, vai trò trước mắt của chính phủ các quốc gia là tăng cường năng lực thể chế để cải thiện công tác quản lý các hệ sinh thái nước ngọt và nước ngầm, xem xét các mối liên kết hệ thống từ nguồn tới biển và mối liên kết với các lĩnh vực khác.
Thời gian tới, Việt Nam cần tìm hiểu rõ hơn về các hạn chế đối với phát triển bền vững tại địa phương; tăng cường nhận thức về mối liên hệ giữa các hoạt động thượng nguồn-hạ nguồn và tác động của các hoạt động này; xây dựng năng lực của địa phương để áp dụng cách tiếp cận toàn diện đối với quản lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế; làm nổi bật các cơ hội, thách thức liên quan đến việc thực hiện phương pháp quản lý từ nguồn tới biển.
Đề xuất giải pháp ngăn chặn rác thải ở biển, điển hình ở Hội An (Quảng Nam), Tiến sỹ Kiều Thị Kính, Đại Học Đà Nẵng cho rằng, trước hết cần kết nối các nguồn lực từ các dự án, cơ quan quản lý, các hội-đoàn thể; thực hiện Chiến lược về giảm rác nhựa; thực hiện đánh giá độc lập, giám sát định kỳ, đánh giá tính hiệu quả trong công tác giảm rác thải nhựa. Ngoài ra, các cơ quan quản lý cần áp dụng mô hình ký gửi đối với du khách khi đến Hội An (du khách tham gia tour cần đóng tiền bảo lãnh để được phát một số đồ dùng cá nhân thân thiện với môi trường, sau khi kết thúc tour sẽ trả lại).
Bên cạnh đó, Tiến sỹ Kiều Thị Kính cũng đề xuất cần áp dụng các mô hình thí điểm như: thu gom rác theo khối lượng; mở rộng trách nhiệm nhà sản xuất; “Ngôi nhà xanh của em” trong trường học; xây dựng giải pháp chi phí thấp... Các chuyên gia về môi trường đều nhận định chất thải rắn sinh hoạt là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương. Do đó, việc đề xuất được các giải pháp đồng bộ từ mô hình quản lý, mô hình công nghệ xử lý chất thải nhằm kiểm soát, giải quyết được bài toán xử lý triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải là vấn đề hết sức cấp thiết.
Giống với các nước trên thế giới, hình thức tái chế sơ cấp, thứ cấp và tứ cấp được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, nhưng khả năng kiểm soát ô nhiễm thứ cấp còn hạn chế. Việt Nam hiện đang có nhiều chính sách khuyến khích nhằm đẩy mạnh việc tái sử dụng và tạo ra các vật liệu thay thế nhựa có nguồn gốc sinh học hoặc có thể phân hủy sinh học.
Đối với vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa và rác thải nhựa đại dương đã được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm và nỗ lực giải quyết thông qua việc đổi mới căn bản chính sách về bảo vệ môi trường. Điển hình như việc thông qua Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi; trong đó, luật hóa các nội dung liên quan đến chất thải nhựa như quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn về nhựa.
Xác định rõ, biển và đại dương là nguồn sống, không gian sinh tồn vô cùng quan trọng của con người và là nền tảng cơ bản cho phát triển bền vững. Với nhận thức trên, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030; Chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn 2030; triển khai thực hiện Đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương. Gần đây nhất, Việt Nam đã tham gia Chương trình đối tác hành động toàn cầu về nhựa tại Việt Nam và đặt mục tiêu đến năm 2030 giảm 75% rác thải nhựa đại dương…
Và trong lộ trình hướng tới mục tiêu áp đặt lệnh cấm lưu thông các sản phẩm ống hút nhựa, túi nhựa khó phân hủy sinh học và hộp đựng thực phẩm tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ, quy định một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020 liên quan đến quản lý chất thải nhựa cũng đã có những quy định rõ bắt đầu từ ngày 1/1/2026, Việt Nam sẽ ngừng sản xuất cũng như nhập khẩu túi nhựa không phân hủy sinh học có kích thước nhỏ hơn 50cm x 50cm và độ dày dưới 50 µm phục vụ tiêu dùng trong nước. Nghị định cũng yêu cầu giảm dần việc sản xuất và nhập khẩu các sản phẩm SUP khác, cho đến khi tất cả bị cấm vào năm 2031.
Tiếp theo, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định 45/2022/NĐ-CP về quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường có hiệu lực từ 25/8/2022. Dù chưa áp dụng xử phạt hành vi không phân loại rác tại nguồn. Nhưng với việc ban hành Nghị định sẽ góp phần nâng cao công tác tuyên truyền đến người dân nhằm thay đổi hành vi, lối sống và thói quen tiêu dùng của người dân.
Và trong tháng 6/2022, Chính phủ Việt Nam cũng đã giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan để xây dựng kế hoạch quốc gia về kinh tế tuần hoàn. Điều này không những sẽ góp phần làm giảm đáng kể lượng rác thải nhựa ra môi trường đồng thời còn biến rác thải nhựa thành những nguồn tài nguyên quý giá quay trở lại phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội.