Công tác xử lý tro, xỉ than nhiệt điện tại các tỉnh phía Nam – Bài 1: Các bãi chứa tro, xỉ than quá tải gây ô nhiễm môi trường

Bảo vệ môi trường - Ngày đăng : 12:00, 01/04/2022

Moitruong.net.vn – Thực trạng quá tải tại các bãi chứa tro, xỉ than nhiệt điện ở phía Nam tồn tại khá lâu và được dư luận rất quan tâm. Dù đã có nhiều giải pháp, nhưng lượng tiêu thụ tro xỉ vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra, do vậy, thúc đẩy các giải pháp tiêu thụ tro xỉ than và bảo vệ môi trường là việc làm cấp bách hơn lúc nào hết.

Tồn hàng triệu tấn

Trong khi tro, xỉ của các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) ở phía Bắc khá “đắt hàng” thì ở khu vực phía Nam, các NMNĐ lại gặp không ít khó khăn khi tiêu thụ, các bãi chứa tro, xỉ than chỉ trong thời gian ngắn nữa sẽ quá tải, nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường là rất lớn.

Tỉnh Bình Thuận hiện có 4 nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) đang hoạt động. Đến nay, lượng tro, xỉ than của các nhà máy đang lưu giữ, chôn lấp tại các bãi chứa đã lên tới gần 12 triệu tấn. Nếu không có giải pháp xử lý căn cơ, bền vững thì lượng tro, xỉ than tiếp tục phát sinh, nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường.

Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân (xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong, Bình Thuận) hiện có 4 NMNĐ với tổng công suất gần 4.300MW đang hoạt động gồm: Vĩnh Tân 1, Vĩnh Tân 2, Vĩnh Tân 4 và Vĩnh Tân 4 mở rộng. Nhằm giải quyết lượng chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất điện, các nhà máy này đã được chấp thuận xây dựng 2 bãi chôn lấp tro, xỉ với tổng diện tích gần 100ha ở xã Vĩnh Tân.

Ghi nhận tại bãi chứa tro, xỉ than tập trung của NMNĐ Vĩnh Tân 2 khi nơi đây vừa thi công xong đê bao tầng cuối cùng (tầng 5) để lưu trữ. Theo thiết kế, bãi xỉ NMNĐ Vĩnh Tân 2 sử dụng chung với NMNĐ Vĩnh Tân 4 và Vĩnh Tân 4 mở rộng có diện tích hơn 38ha, được thiết kế 5 tầng đê bao, với độ cao tối đa cho phép là 27m, có khả năng lưu trữ khoảng 8,7 triệu tấn tro, xỉ. Hiện tại, bãi chứa này đã lưu trữ 8,1 triệu tấn (chủ yếu của NMNĐ Vĩnh Tân 2 với 7,2 triệu tấn), khả năng lưu trữ chỉ còn khoảng 600.000 tấn.

Bãi chứa tro, xỉ than của các Nhà máy Nhiệt điện ở Bình Thuận dự kiến 3 tháng nữa sẽ quá tải.

Đại diện NMNĐ Vĩnh Tân 2 cho biết, căn cứ kế hoạch sản xuất điện 6 tháng đầu năm 2022 của các NMNĐ 2, 4 và 4 mở rộng, khối lượng tro, xỉ dự kiến mang ra lưu trữ tại bãi chứa khoảng 500.000 tấn thì chỉ khoảng 3 tháng nữa là không còn chỗ để chứa.

Trong khi đó, bãi chứa tro, xỉ của NMNĐ Vĩnh Tân 1 có diện tích gần 60ha, sức chứa theo thiết kế khoảng 7,5 triệu tấn. Đến cuối tháng 2/2022, lượng tro, xỉ đang lưu chứa tại bãi đã hơn 3,8 triệu tấn, chiếm hơn 51% tổng dung tích. Theo báo cáo của NMNĐ Vĩnh Tân 1, chỉ trong 3 tháng đầu năm 2022, lượng tro, xỉ phát sinh trong quá trình sản xuất điện là trên 163.000 tấn, trong đó khoảng 56.000 tấn đã được chôn lấp tại bãi chứa. Như vậy, với lượng tro, xỉ phát sinh rất lớn, nếu không có giải pháp tiêu thụ, xử lý thì không lâu nữa, bãi chứa này cũng sẽ quá tải.

Tại Trà Vinh, Công ty Nhiệt điện Duyên Hải cho biết, tổng lượng tro xỉ phát sinh của 3 nhà máy là khoảng 6,69 triệu tấn. Công ty Nhiệt điện Duyên Hải đã ký hợp đồng với 10 đơn vị tiêu thụ tro xỉ của NMNĐ Duyên Hải 1; 2 đơn vị tiêu thụ tro xỉ của NMNĐ Duyên Hải 3; 5 đơn vị tiêu thụ tro xỉ của NMNĐ Duyên Hải 3 mở rộng. Tổng khối lượng tro xỉ của NMNĐ Duyên Hải 1 đã tiêu thụ đến tháng 2/2021 gần 2,5 triệu tấn; NMNĐ Duyên Hải 3 khoảng 595.439 tấn và NMNĐ Duyên Hải 3 mở rộng trên 50.000 tấn. Ngoài ra, công ty cũng đã bàn giao tro xỉ cho UBND thị xã Duyên Hải theo chương trình hỗ trợ xây dựng trường mẫu giáo xã Dân Thành, với khối lượng 90.221 tấn.

Ông Nguyễn Văn Thú – Giám đốc Công ty Công ty Nhiệt điện Duyên Hải cho biết, nếu như năm 2017 tỷ lệ tiêu thụ tro xỉ của Công ty chỉ đạt 22% thì tới 7 tháng đầu năm 2021, con số này đã tăng lên 85%. Đây đã là đơn vị thuộc EVN có mức tiêu thụ tro, xỉ tốt nhất tại khu vực phía Nam. Tuy nhiên, mục tiêu tiêu thụ 100% vẫn còn khá xa.

Ảnh hưởng nặng nề đến môi trường sống

Tỉnh Bình Thuận hiện có 4 NMNĐ tập trung tại Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân với tổng công suất trên 4.200MW, gồm: Vĩnh Tân 1, 2, 4 và 4 mở rộng. Đây là một trong những trung tâm nhiệt điện lớn nhất cả nước.

Tại khu vực 2 bãi chứa tro xỉ của 4 NMNĐ Vĩnh Tân, nhìn cảnh tượng bãi chứa tro xỉ đã cao hơn so với mặt đường hàng chục mét, ai cũng phải e ngại. “Trước đây thì bụi kinh hoàng, có hôm tôi chạy xe ban đêm còn không nhìn thấy đường vì bụi giăng kín. Thời gian gần đây, tình trạng bụi đã đỡ nhiều, lâu lâu gió lớn thì có bụi nhẹ. Tuy nhiên, sắp tới vào mùa gió lớn thì chưa biết thế nào?”, ông T.V.Đ. (ngụ thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân) nói.

Bãi tro xỉ của Nhà máy nhiệt điện thuộc Trung tâm điện lực Vĩnh Tân.

Tại các bãi chứa tro xỉ than của các NMNĐ, bãi chứa của NMNĐ Vĩnh Tân 2 sử dụng chung với NMNĐ Vĩnh Tân 4 và 4 mở rộng được chôn lấp, phủ bạt, phun nước liên tục nên ít có hiện tượng bụi phát tán. Còn tại bãi chứa của NMNĐ Vĩnh Tân 1, mỗi khi có gió lớn thì bụi vẫn cuốn lên bay ra khỏi bãi chứa.

Trong khi tình hình phát tán bụi tại các bãi chứa tro xỉ cơ bản được kiểm soát thì người dân sống gần các NMNĐ vẫn đang phải sống trong cảnh ô nhiễm tiếng ồn và bụi. Nằm cách hàng rào NMNĐ Vĩnh Tân 4 mở rộng chỉ khoảng 80m là khu vực xóm 7, thôn Vĩnh Phúc (xã Vĩnh Tân), nơi được xem là khu vực chịu ảnh hưởng ô nhiễm nặng nề nhất từ khi các NMNĐ đi vào hoạt động. Tại đây đang là nơi cư ngụ của khoảng 400 hộ dân với khoảng 2.000 nhân khẩu, chủ yếu sinh sống bằng nghề biển.

Nhiều căn nhà nơi đây được giăng những tấm màn vải, lưới mắt nhỏ để ngăn bụi bay vào nhà. Chị N.T.T. cùng 4 người bạn (ngụ xóm 7) cho biết: “Hơn 5 năm qua, từ khi NMNĐ đầu tiên nơi đây đi vào hoạt động, đời sống của bà con trong xóm bị đảo lộn vì phải sống chung với bụi và tiếng ồn. Hiện tại, mặc dù mức độ ô nhiễm bụi và tiếng ồn có giảm hơn so với trước đây, nhưng tình hình vẫn còn rất đáng lo. Khi trời im gió thì xuất hiện bụi đen, còn gió lớn thì bụi trắng mịn”. Như để minh chứng cho lời nói của mình, chị T. lấy tay chà nhẹ vào bộ bàn ghế đá của gia đình đang nằm ở góc sân. Lập tức lòng bàn tay của chị đang trắng liền chuyển sang màu đen vì bụi.

Do kinh doanh tạp hóa nên căn nhà của bà Võ Thị Sẻ (ngụ xóm 7) lúc nào cũng phải mở cửa. “Khổ lắm, cứ 10-15 phút là tôi phải quét nhà, tạt nước trước ngõ một lần. Nhà tôi giờ phải dùng tôn che kín mít hết, chỉ chừa cái cổng nhỏ cho khách vào mua hàng, vậy mà bụi vẫn nhiều lắm”, bà Sẻ kể. Nhiều người dân như chị T., bà Sẻ còn cho biết, không chỉ có bụi, tiếng ồn từ hoạt động của các NMNĐ phát ra rất khó chịu. “Trước đây có thời điểm tiếng ồn đinh tai nhức óc, bây giờ chỉ đỡ hơn chút. Tầm 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều, và từ 9 giờ tối đến rạng sáng hôm sau là tiếng ồn phát ra. Chúng tôi làm nghề đi biển, những thời điểm này cần phải được nghỉ ngơi, nhưng có hôm không tài nào ngủ được” chị T. bức xúc.

Ngoài việc bụi và tiếng ồn vẫn đang gây tác động thì tình trạng người dân, nhất là trẻ nhỏ ở khu vực xóm 7, thường xuyên bị các bệnh liên quan đến đường hô hấp là vấn đề đáng lo ngại.

Không chỉ ảnh hưởng đến không khí, tại khu vực Bậc Lở, thuộc thôn Vĩnh Hưng (xã Vĩnh Tân), xảy ra tình trạng sạt lở, hệ sinh thái gần bờ biển đang bị biến dạng. Theo người dân địa phương, khu vực Bậc Lở trước đây không chỉ có nguồn lợi thủy sản rất phong phú mà còn có hệ san hô trải dài tuyệt đẹp. “Từ khi các NMNĐ nơi đây đi vào hoạt động thì không những tôm, cá ngày càng ít đi mà những rạn san hô ven bờ cũng đã không còn. Trước đây, người dân chúng tôi còn làm nghề nuôi rong biển, bẫy tôm hùm con, nhưng giờ thì không nuôi được nữa, tôm hùm con ngày càng ít đi”, ông Nguyễn Tuấn (xã Vĩnh Tân), chia sẻ.

Trong khi đó, nằm cách Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân khoảng hơn 10km, Khu bảo tồn biển Hòn Cau (xã Vĩnh Tân) cũng đang bị ảnh hưởng nặng nề. Khu vực này là nơi sinh sống và là bãi đẻ của nhiều loài thủy sinh vật quý hiếm, có giá trị kinh tế và sinh thái quan trọng. Trong đó có rùa biển và quần thể san hô nguyên thủy dài hơn 2km với 234 loại san hô, 34 loài thủy sinh vật quý hiếm. Tuy nhiên, đến nay, hệ thống san hô quanh khu vực đảo Hòn Cau đã bị suy giảm một cách rõ rệt.

Từng có thời gian hơn 10 năm công tác tại Hòn Cau, ông T.L. cho biết: trước khi có các NMNĐ, nơi đây san hô có độ phủ lên tới 60-70%, nhưng đến nay chỉ còn khoảng 40%. “Hiện tại, san hô trên đảo Hòn Cau chỉ còn phát triển ở khu vực phía Đông Bắc (mặt hướng ra biển Đông, thuộc Hòn Một), còn các khu vực bên hông đảo và mặt nằm đối diện với đất liền thì đã bị sụp xuống, chết hết”, ông L. thông tin. Ngoài ra, năm 2019, Viện Hải dương học Nha Trang đã phối hợp với các ngành chức năng tổ chức di dời dải san hô nằm trước khu vực biển các NMNĐ Vĩnh Tân đưa ra Khu bảo tồn biển Hòn Cau để tái sinh. Vậy nhưng đến nay, toàn bộ những dải san hô này đã không còn tồn tại.

Tại khu vực NMNĐ Duyên Hải (thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh) một số hộ dân cho biết trồng lúa hay nuôi tôm gần đây đều không đạt năng suất. Chú Tư Trống (xã Dân Thành) nói: “Nếu 3 năm trước, ruộng dưa hấu của tôi khoảng 3.000m2, thu hoạch trên chục tấn. Từ khi NMNĐ Duyên Hải đưa vào vận hành tới giờ, năng suất giảm phân nửa. Chỉ cần quan sát từ 1 đến 2 tuần là thấy bụi đen bám trên ruộng dưa hấu khá nhiều, nhưng không biết đây có phải là nguyên nhân chính hay không?”.

Cách nhà chú Tư Trống, hướng đi về điểm du lịch biển Ba Động (xã Trường Long Hòa) khoảng 3km, người dân nơi đây nuôi tôm rất nhiều. Chú Tư Đề (xã Trường Long Hòa) phản ánh: trong một số buổi sáng đi thăm vuông tôm thì thấy bụi đen, bám trên bờ, đóng màn trên mặt nước. Con tôm rất nhạy cảm, nên đó cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến tôm chậm lớn, rủi ro cao… còn trong bụi đó có độc tố không thì không biết. “Quá trình canh tác hàng năm của gia đình tôi, nếu diện tích 3ha tôm nuôi theo hình thức công nghiệp, trong 75 ngày sản lượng đạt khoảng 17 tấn. Từ khi nhà máy vận hành thì tôm nuôi chậm lớn, từ 90-100 ngày mới thu hoạch, mà chỉ đạt khoảng chục tấn”, chú Tư Đề cho biết.

Giang Anh