Khai thác nước ngầm quá mức (Bài 1): Thực trạng và định hướng quản lý khai thác nước ngầm bền vững
Tài nguyên nước - Ngày đăng : 08:30, 07/11/2022
Nước ngầm, một cách gọi khác của “nguồn nước dưới đất", là một dạng tài nguyên nước được phân bổ hoàn toàn dưới bề Trái Đất được tích trữ trong không gian rỗng của đất hay trong những khe nứt của lấp đất đá trầm tích. Ở Việt Nam hiện nay, việc khai thác nước ngầm đang diễn ra quá mức, và đang đứng trước nguy cơ bị cạn kiệt, cần được bảo vệ.
Từ năm 1992, Liên Hợp Quốc chọn ngày 22/3 hàng năm là Ngày Nước Thế giới. Chủ đề Ngày Nước Thế giới năm 2022 là “Nước ngầm” (Groundwater) nhằm thu hút sự chú ý đến nguồn tài nguyên nước tiềm ẩn luôn được coi trọng nhưng chưa được công nhận đầy đủ giá trị trong hoạch định chính sách phát triển bền vững.
Mỗi năm Liên Hợp Quốc lựa chọn một chủ đề cụ thể cho Ngày Nước Thế giới để phản ánh những khía cạnh khác nhau về nước. Năm nay, Ngày Nước Thế giới 2022 có chủ đề là “Nước ngầm” (Groundwater) với mục đích nhằm thu hút sự chú ý đến nguồn tài nguyên nước tiềm ẩn luôn được coi trọng nhưng chưa được công nhận đầy đủ giá trị trong hoạch định chính sách phát triển bền vững, nhấn mạnh vai trò quan trọng của nước ngầm trong hệ thống nước và điều kiện vệ sinh, hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, hệ sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu; hướng đến kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng cần có những hành động khai thác, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước ngầm, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thông điệp bao trùm của chiến dịch là khám phá, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước ngầm sẽ là việc làm trọng tâm để tồn tại và thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng nhu cầu của dân số ngày càng tăng.
Ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ TN&MT) cho biết: Nguồn nước mặt thì ai cũng thấy và nhận biết được tầm quan trọng. Tuy nhiên, nước ngầm (nước dưới đất) lại nằm trong lòng đất, không thấy bằng mắt thường, nhưng đề biết giá trị của nó cho mục đích sinh hoạt và sản xuất.
Từ xưa đã khai thác nước ngầm bằng các giếng khơi, và ngày nay thì khai thác cả bằng giếng khơi và giếng công nghiệp (khoan sâu) để phục vụ sinh hoạt sản xuất, đặc biệt là tại đô thị lớn, vùng nước mặt bị nhiễm mặn.
Ngoài ra, nước ngầm còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho nước sông, về mùa khô không có mưa, nước ngầm thoát ra sông cung cấp dòng chảy cho sông.
Do đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đặt nhiệm vụ vừa phải hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ nước ngầm hiện có, vừa ứng dụng công nghệ để xử lý nguồn nước nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước.
Những thực trạng hiện hữu
Số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) cho thấy hiện toàn quốc có khoảng 4.500 hệ thống cấp nước tập trung cho cả đô thị và nông thôn với tổng công suất cấp nước thiết kế khoảng 10,9 triệu m3/ngày đêm, trong đó nước mặt chiếm 87%, nước ngầm chiếm 13%. Khu vực đô thị có khoảng 829 nhà máy nước với tổng công suất đạt khoảng 10,6 triệu m3/ngày đêm, 70% trong đó sử dụng nguồn nước mặt và 30% từ nước ngầm. Trong những năm gần đây đã có nhiều cải tiến và nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước của người dân.
Tuy nhiên, do dân số tăng nhanh kéo theo nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng cao, hệ thống cấp nước sinh hoạt khu vực đô thị gặp nhiều khó khăn. Đầu tư phát triển cấp nước chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu, dẫn đến tình trạng nguồn nước dưới mặt đất bị khai thác quá mức, tập trung tại một số đô thị như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Cà Mau (tỉnh Cà Mau).
Tại khu vực nông thôn, đã xây dựng khoảng trên 16.573 công trình cấp nước tập trung, phục vụ cho 28,5 triệu người, phần lớn được lấy từ nguồn nước ngầm. Đối với người nông dân, nước không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt mà còn là nguồn tài nguyên chính giúp quá trình canh tác đạt hiệu quả, góp phần duy trì và phát triển ngành nông nghiệp. Vài năm trước, mỗi nhà vườn chỉ cần khoan từ 1-2 giếng khoan là đáp ứng nhu cầu sản xuất vì nguồn nước khoan khá dồi dào.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt vào mùa hè khi nhiệt độ tăng cao, người dân phải khoan 3-4 giếng mới đủ nước đảm bảo sản lượng sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, tuy ở nhiều tỉnh thành, nước máy đã được triển khai để cấp nước cho người dân nhưng do tâm lý e ngại, người dân thay vì sử dụng nước máy, vẫn tiếp tục khai thác và sử dụng nước ngầm để sinh hoạt, sản xuất.
Tất cả những nguyên nhân này đã và đang góp phần làm cạn kiệt, khan hiếm nguồn nước ngầm, từ đó dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân.
Chất lượng nước ở Việt Nam đang trên đà suy thoái nghiêm trọng, đặc biệt ở các thành phố lớn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế, sức khỏe, đời sống người dân. Tuy nhiên, việc quản lý vẫn còn nhiều bất cập.
Nói về thực trạng khai thác nước ngầm ở Việt Nam, ông Nguyễn Minh Khuyến cho biết: Tỷ lệ thất thoát nước cho cấp nước đô thị và nông thôn còn ở mức cao (khoảng 25%), công suất khai thác nước thực tế còn thấp hơn rất nhiều so với năng lực thiết kế nhất là khai thác nước trong thủy lợi, nông nghiệp. Hầu hết các hệ thống công trình thủy lợi đều chưa khai thác đạt năng lực thiết kế mà chỉ ở mức từ 50 đến 90% tùy theo từng khu vực. Trong khi, việc điều tiết nước, hiệu quả sử dụng nước thấp, chưa tiết kiệm, thất thoát nước còn lớn (trong thủy lợi khoảng 30%).
Đối với hệ thống thủy lợi, hệ thống kênh mương dẫn nước mới chỉ bê tông hóa các hạng mục đầu mối quan trọng, hầu hết hệ thống đấu nối ra đồng ruộng là các kênh đất, được xây dựng từ khá lâu, từ khi đất nước còn rất nghèo, trình độ khoa học công nghệ còn thấp nên thất thoát nước còn lớn và rất khó kiểm soát. Hầu hết hệ thống kênh dẫn đang sử dụng hiện nay là kênh hở nên việc bốc hơi nước trong điều kiện mùa khô là cao, đặc biệt là các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận...Nhiều hồ được xây từ rất lâu nên công nghệ sử dụng lạc hậu, chủ yếu là đập đất; hạ tầng đấu nối đi kèm không thể tương thích cũng làm giảm hiệu quả hoạt động của công trình; nhiều hồ không thể tích được đủ nước theo dung tích thiết kế, thậm chí không thể tích nước, mất an toàn..nên cũng ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác, sử dụng nước.
Nông nghiệp là ngành sử dụng nước lớn nhất và hiệu quả sử dụng nước của ngành này sẽ quyết định nguồn cung nước cho các mục tiêu sử dụng khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nước trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, còn thấp. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Tổ chức Lương thực thế giới (FAO) năm 2018, hiệu suất sử dụng nước cho nông nghiệp của Việt Nam tuy có cải thiện qua các giai đoạn nhưng vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 0,2 USD/m3. Theo đánh giá của WB năm 2019, nước sử dụng trong nông nghiệp chiếm 81% tổng lượng nước của Việt Nam nhưng hiện chỉ tạo ra 17-18% GDP và tạo việc làm cho 45% lực lượng lao động.
Ông Nguyễn Minh Khuyến nói thêm: Kết quả nghiên cứu bước đầu do Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện (Dự án “Điều tra, đánh giá địa động lực hiện đại để hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu và đề xuất giải pháp thích ứng ở ĐBSCL”) đã ghi nhận xu thế nâng, hạ-sụt lún vùng TP.HCM và ĐBSCL có biên độ nâng, hạ ở mức độ khác nhau, trong đó: vùng có biên độ nâng (từ 2,4 - 11,4mm/năm) có diện tích khoảng 5,8 nghìn km2 thuộc khu vực các tỉnh An Giang, Kiên Giang và một phần diện tích ở Đông Bắc TP.Hồ Chí Minh; vùng có biên độ hạ (từ 7,4 - 11,8 mm/năm) phân bố trên toàn bộ diện tích còn lại của ĐBSCL và TP.HCM với diện tích khoảng 36,8 nghìn km2. Việc sụt lún do nguyên nhân tự nhiên có xu hướng giảm dần cho đến khi đồng bằng ổn định.
Về các yếu tố nhân tạo: Các yếu tố gây sụt lún đất bao gồm: suy giảm phù sa, hoạt động xây dựng công trình tập trung; độ rung do hoạt động giao thông vận tải... và do khai thác nước dưới đất quá mức. Đến nay, chưa có nghiên cứu, đánh giá cụ thể để xác định mức độ tác động của từng nguyên nhân gây lún nêu trên. Nhưng khai thác nước dưới đất quá mức là một trong những nguyên nhân gây sụt lún đất ở khu vực TP.HCM và vùng ĐBSCL.
Tuy nhiên, quy mô, mức độ tác động làm gia tăng quá trình lún còn phụ thuộc vào đặc điểm của từng khu vực cụ thể. Có khu vực khai thác với mật độ cao nhưng lại không bị lún hoặc lún ít hơn so với các khu vực khai thác với mật độ nhỏ hơn; có khu vực không khai thác nhưng vẫn bị lún, thậm chí còn bị lún cao hơn.
Như vậy, có thể thấy tình trạng sụt lún đất tại từng khu vực là hệ quả tổng hợp của các nguyên nhân tự nhiên, nhân tạo. Trong đó, tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của mỗi khu vực mà có thể do nhóm nguyên nhân về tự nhiên hoặc nhóm nguyên nhân do hoạt động của con người (trong đó có khai thác NDĐ, xây dựng kết cấu hạ tầng) là nguyên nhân chính. Vấn đề này cần phải được tiếp tục nghiên cứu, phân tích đánh giá toàn diện, cụ thể đối với từng khu vực để có giải pháp ứng phó phù hợp.
Nước ngầm bị "nhiễm độc", ô nhiễm trầm trọng
Ông Nguyễn Văn Thùy, Trung tâm Quan trắc môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, Việt Nam có 3.450 sông, suối có chiều dài 10km trở lên, với tổng lượng nước mặt khoảng 830 tỷ mét khối, tập trung ở 8 lưu vực sông lớn như sông Hồng - Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng Nam và sông Mê Kông, trong đó có 63% có nguồn gốc ngoài biên giới.
Do đặc trưng dòng chảy, phân bố lượng nước không đều theo mùa và sự suy giảm chất lượng nước do ô nhiễm khiến nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngày càng hiện hữu.
“80% nước cấp đầu vào cho sinh hoạt trở thành nước thải sinh hoạt, đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng có lượng nước thải sinh hoạt lớn nhất cả nước với nhiều thành phần ô nhiễm. Cùng với đó, ô nhiễm từ nước thải công nghiệp của làng nghề, khu công nghiệp, nước thải nông nghiệp, y tế… đang là vấn đề thách thức”, ông Thùy cho biết.
Theo “Báo cáo môi trường quốc gia về môi trường đô thị” do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2017, cùng với ô nhiễm nguồn nước mặt, tình trạng ô nhiễm, suy thoái nguồn nước ngầm đang là vấn đề đáng lo ngại, nhất là đối với các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh.
Một số khu vực đô thị đã và đang xảy ra hiện tượng ô nhiễm cục bộ nước dưới đất với một số thông số TDS, Amoni, kim loại nặng như chì, Asen, mangan vượt quy chuẩn Việt Nam (QCVN) và ghi nhận hiện tượng xâm nhập mặn nước dưới đất. Một số đô thị ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ có hàm lượng Asen trong nước dưới đất cao do cấu tạo địa chất của vùng, điển hình là Hà Nam đã ghi nhận hàm lượng Asen vượt quy chuẩn tới 4,7 lần.
Nguồn nước ngầm hiện nay đang đối mặt với nhiều thách thức như: Khai thác gia tăng do nguồn nước mặt không đủ cung cấp (nước mặt ô nhiễm, suy giảm dòng chảy); khai thác gia tăng dẫn đến xâm nhập mặn đến công trình khai thác nước ngầm. Nhiều nơi suy giảm chưa có dấu hiệu hồi phục. Ô nhiễm chất có chứa nguồn gốc Nitơ, như NH4, NO3 ở một số nơi nhất là tại khu vực phía Nam Hà Nội.
Theo thống kê sơ bộ, tổng lượng khai thác nước dưới đất trên toàn quốc ước tính khoảng 10,5 triệu m3/ngày đêm (chiếm khoảng 17,2% trữ lượng nước dưới đất có thể khai thác), trong đó có nhiều thành phố, đô thị lớn chủ yếu khai thác nguồn nước dưới đất như Hà Nội, HCM, Cần Thơ, Mỹ Tho (Tiền Giang), Vũng Tàu,… Nguồn nước dưới đất được khai thác để cấp nước cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu cấp nước sinh hoạt (đô thị, nông thôn), sản xuất, ngoài ra còn khai thác để phục vụ cho một số mục đích khác (tưới cà phê, cây công nghiệp ở Tây Nguyên; nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm trên cát ở ven biển miền Trung, bán đảo Cà Mau,…).
Tồn tại nhiều bất cập trong công tác quản lý nguồn nước ngầm
Bà Nguyễn Ngọc Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng cho biết, hiện có nhiều quy định quản lý về tài nguyên nước như Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Tài nguyên nước cùng các Nghị định… thế nhưng hệ thống pháp luật quản lý mang nặng tính hành chính, nhiều tầng lớp. Các công cụ thực thi chưa dựa vào nền tảng khoa học công nghệ, khó thực thi, giám sát và quản lý, đặc biệt rất khó xác định trách nhiệm trong quản lý.
“Hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nước hiện nay thiếu tính thực thi, có quá nhiều văn bản luật liên quan nhưng khoảng cách từ văn bản đến công cụ thực thi rất xa, gần như bị vô hiệu hóa và ô nhiễm nước vượt tầm kiểm soát”, bà Lý nhấn mạnh.
Bà Lý cũng chỉ ra, đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh, lượng chất gây ô nhiễm độc hại vào nước ngày càng lớn và xảy ra hàng ngày. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người dân mà còn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế. Bà Lý cho biết, thiệt hại kinh tế do ô nhiễm nước rất lớn, trong gần 10 năm giai đoạn (2008 – 2017), theo sơ bộ tính là trên 11.600 tỷ đồng. Chi phí để khôi phục ô nhiễm nước là vô cùng lớn như kênh Nhiêu lộc Thị Nghè chỉ có 8 km nhưng thời gian cải tạo kéo dài từ năm 1993 đến nay vẫn đang cải tạo, tiêu tốn 685 triệu USD (tương đương gần 16.000 tỷ đồng).
Trước thực trạng trên, xây dựng và hoàn thiện luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước để bảo vệ nguồn nước sạch, kiểm soát tốt nguồn gây ô nhiễm nước là rất cần thiết. Cụ thể, cần xây dựng luật mới về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước trên cơ sở giữ các quy định phù hợp của luật hiện hành và bổ sung những quy định mới có tính kịp thời nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.