Phát huy vai trò giám sát của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường

Bảo vệ môi trường - Ngày đăng : 19:00, 10/11/2022

Một trong những điểm mới được nhiều người dân quan tâm trong Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 có hiệu lực từ ngày 1/1/2022, là nêu cao vai trò giám sát của cộng đồng dân cư về lĩnh vực này, khắc phục hạn chế Luật BVMT năm 2014 trước đây.

>> Những biện pháp bảo vệ môi trường sống>

Nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường

Theo đó, Luật BVMT mới đã khẳng định vai trò của cộng đồng dân cư hết sức quan trọng và quyết định của công tác BVMT. Luật đã đưa “cộng đồng dân cư” vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nhằm khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác BVMT.

Cụ thể, Luật quy định thiết lập hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý, trả lời phản ánh, kiến nghị, tham vấn của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về BVMT, qua đó giúp cộng đồng dân cư có thể tham gia giám sát hoạt động BVMT thông qua công nghệ thông tin, tương tác các ứng dụng thông minh trên điện thoại di động.

vai-tro-cong-dong-dan-cu-trong-cong-tac-bao-ve-moi-truong-1.jpg
Ảnh minh họa

Bên cạnh đó, vấn đề công khai thông tin đã được quy định xuyên suốt, thống nhất theo các nội dung về BVMT, cùng với một khoản riêng quy định việc cung cấp, công khai thông tin về môi trường. Nguyên tắc hoạt động BVMT phải được công khai, minh bạch; Quy định rõ trách nhiệm công khai thông tin liên quan đến chất lượng môi trường không khí, chất lượng môi trường đất, chất thải nguy hại, kết quả quan trắc chất thải; Chủ trương của Nhà nước là khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp, cung cấp thông tin về môi trường; trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh và của chủ dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu sản xuất, kinh doanh tập trung, cụm công nghiệp trong việc cung cấp, công khai thông tin về môi trường.

Đặc biệt, Luật đã dành một Điều quy định công khai thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Theo đó, việc công khai danh sách hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường lần đầu tiên được quy định.

Việc công bố, công khai quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của cơ quan thẩm định, công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường sau khi được phê duyệt kết quả thẩm định của chủ dự án, nội dung báo cáo đề xuất cấp giấy phép môi trường, trừ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật để lấy ý kiến của các bên liên quan cũng đã được quy định cụ thể trong Luật.

Hình thức công khai được thực hiện thông qua cổng thông tin của cơ quan, tổ chức, trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hình thức khác, bảo đảm thuận tiện cho những đối tượng có liên quan tiếp nhận thông tin; giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung và việc quản lý thông tin về môi trường; trình tự, thủ tục, thời điểm và hình thức cung cấp, công khai thông tin về môi trường.

Trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham vấn cộng đồng dân cư, được quy định ngay từ khi lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm thực hiện tham vấn, đối tượng tham vấn, nội dung tham vấn chủ yếu, hình thức tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường; kết quả tham vấn cộng đồng dân cư, cơ quan, tổ chức liên quan là thông tin quan trọng để chủ dự án nghiên cứu đưa ra giải pháp giảm thiểu tác động của dự án đối với môi trường và hoàn thiện báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án.

Khuyến khích các hoạt động phát triển hài hòa với thiên nhiên


Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã thay đổi mạnh mẽ trong tư duy quản lý môi trường thông qua thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên quy luật tự nhiên, không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế. Tức là tập trung nguồn lực, công cụ quản lý để kiểm soát khoảng 20% số cơ sở có nguồn thải lớn, thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.

Cùng với đó, Luật vẫn bảo đảm tinh thần cải cách mạnh mẽ cho doanh nghiệp, đặc biệt là các chính sách nhằm khuyến khích các hoạt động sản xuất, phát triển hài hòa với tự nhiên, bảo vệ và phát triển tự nhiên.

Dựa trên nguyên tắc này, Luật đã tiếp cận phương pháp quản lý môi trường xuyên suốt, khoa học đối với dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi trường; sàng lọc, không khuyến khích các dự án không tuân theo quy luật tự nhiên, chiếm dụng lớn diện tích rừng, đất lúa, tác động đến các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn; áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn từ việc xây dựng chiến lược, quy hoạch đến thực hiện dự án đầu tư.

Từ đó, dự án đầu tư được phân thành 4 nhóm gồm có nguy cơ cao, có nguy cơ, ít có nguy cơ hoặc không có nguy cơ tác động xấu đến môi trường.

Tương ứng với từng đối tượng dự án cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp. Cụ thể là quy định chỉ đối tượng có nguy cơ cao (nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường, nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, giảm thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhiều nhà đầu tư.

Luật áp dụng đầy đủ các công cụ môi trường để quản lý, sàng lọc dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao như đánh giá sơ bộ tác động môi trường, đánh giá tác động môi trường, cấp giấy phép môi trường nếu phát sinh chất thải.

Các dự án áp dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường được cấp giấy phép môi trường ngay từ giai đoạn nghiên cứu khả thi và tổ chức hậu kiểm (thông qua thanh tra, kiểm tra) khi dự án đi vào hoạt động hoặc chỉ phải đăng ký môi trường (không phải là thủ tục hành chính, được thực hiện bằng hình thức trực tuyến, đơn giản) tại ủy ban nhân dân cấp xã.

Bên cạnh đó, Luật cũng cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính thông qua việc tích hợp toàn bộ các giấy phép, giấy xác nhận về môi trường vào chung 1 giấy phép môi trường và bãi bỏ các giấy phép có liên quan.

Xác lập lại đúng vai trò hoạt động quan trắc chất thải của doanh nghiệp, Luật quy định các đối tượng xả nước thải, bụi, khí thải lớn ra môi trường phải quan trắc định kỳ.

Đối tượng phải quan trắc tự động, liên tục bao gồm các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải trung bình trở lên và cơ sở không thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải lớn, các khu, cụm công nghiệp.

Nhằm tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp trong bối cảnh bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, rất nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ đề xuất đã được Chính phủ đồng ý và thể hiện trong Nghị định này, như lùi thời hạn phải lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải, khí thải tự động, liên tục; tiếp tục gia hạn giấy phép môi trường thành phần đến hết năm 2022 cho một số đối tượng; quy định lộ trình phù hợp đối với một số loại sản phẩm, bao bì phải thực hiện chế định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất.

Ngoài ra, Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020, môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên.

Chính vì vậy, bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sự tồn tại của con người, bảo đảm cho sự phát triển bền vững kinh tế, xã hội. Vì lẽ đó, người dân, doanh nghiệp đóng vai trò cốt yếu trong công tác bảo vệ môi trường.

Yêu cầu về bảo vệ môi trường hay tiêu chí môi trường đã và đang được thể hiện trong các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại thế hệ mới, do đó, thực hiện tốt Luật Bảo vệ môi trường là động lực và lợi thế để hội nhập quốc tế thành công và hiệu quả.

Từ các chính sách, quy định có liên quan, thông điệp ngắn gọn của Luật Bảo vệ môi trường 2020 đưa ra đối với người dân và doanh nghiệp là "Người dân, doanh nghiệp là một phần không thể tách rời của môi trường. Chủ động, có trách nhiệm với môi trường chính là bảo đảm chất lượng sống của người dân và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp."

Thu Hà