Việt Nam có cơ hội lớn để trở thành trung tâm điện gió của thế giới

Tài nguyên và phát triển - Ngày đăng : 11:30, 31/05/2022

Moitruong.net.vn – Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để có thể trở thành trung tâm điện gió lớn của thế giới. Để thực hiện được mục tiêu này, quan trọng nhất là vấn đề cơ chế chính sách đặc biệt là việc xây dựng hạ tầng điện trong đó vấn đề truyền tải là vấn đề rất quan trọng.

Việt Nam là nước nằm trong vùng gió mùa châu Á mạnh và ổn định nên tiềm năng năng lượng gió được đánh giá là rất dồi dào. Theo kết quả khảo sát của chương trình đánh giá về năng lượng cho Châu Á của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng gió trung bình so với các nước trên thế giới và trong khu vực nhưng thuộc diện lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, với tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360 MW, lớn gấp 200 lần công suất của nhà máy thuỷ điện Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam năm 2020.

Theo Báo cáo về tiềm năng năng lượng gió, sóng ngoài khơi tại các vùng biển Việt Nam của Tổng cục Khí tượng thủy văn (Bộ TN&MT), các vùng biển có khả năng khai thác tiềm năng năng lượng gió tốt nhất là Bình Định đến Ninh Thuận, Bình Thuận đến Cà Mau và một phần vùng biển trung tâm vịnh Bắc Bộ.

Đặc biệt, tiềm năng gió đạt ở mức tốt đến rất tốt ở khu vực biển Ninh Thuận đến Bà Rịa – Vũng Tàu với tốc độ gió trung bình năm từ 8m-10 m/s, mật độ năng lượng trung bình năm phổ biến từ 600 W đến trên 700 W/m2. Tiềm năng năng lượng sóng vùng ven biển Việt Nam thông qua số liệu trích xuất tại 20 điểm ven bờ và các trạm hải văn cũng cho thấy vùng có năng lượng sóng lớn nhất tập trung ở khu vực Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận) và thấp hơn dải ven biển Bắc Bộ và Nam Bộ. Hai khu vực ven bờ vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan có tiềm năng năng lượng sóng thấp nhất.

Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển thị trường điện gió ngoài khơi.

Về tiềm năng năng lượng sóng ở các vùng biển Việt Nam, kết quả tính toàn lượng sóng trung bình nhiều năm cho thấy khu vực có tiềm năng năng lượng sóng >2kW/m bao phủ toàn bộ vùng Biển Đông (ngoại trừ khu vực vịnh Thái Lan); khu vực có tiềm năng năng lượng >10kW/m trải rộng từ phía bắc đến giữa Biển Đông và kéo dài đến ngoài khơi khu vực Nam Trung Bộ… Trong mùa đông, gió mùa đông bắc tạo ra vùng năng lượng sóng khá mạnh trên vùng bắc và giữa Biển Đông, nhất là tháng 12 hằng năm với tiềm năng năng lượng lớn nhất với 70kW/m. Vùng biển miền trung từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận năng lượng sóng lớn nhất khoảng từ 50-60kW, với tần suất xuất hiện ngưỡng “tiềm năng trung bình” tới hơn 60% và ngưỡng “tiềm năng cao” tới 40%, do vậy đây sẽ là khoảng thời gian khai thác năng lượng sóng thuận lợi nhất trong năm.

Tuy nhiên, các chuyên gia lĩnh vực năng lượng, môi trường đều cho rằng, khi triển khai các công trình khai thác năng lượng gió, sóng ngoài khơi cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và hoạt động kinh tế – xã hội như: ảnh hưởng của các công trình đến luồng hàng hải; ảnh hưởng các khu bảo tồn, cấm khai thác; các mỏ khai thác dầu khí; cáp ngầm biển… Do vậy, khi quy hoạch xây dựng cần lựa chọn khu vực khai thác để chỉ ảnh hưởng thấp nhất đến giao thông của các tàu thuyền trên biển.

Việt Nam nhận định phát triển điện gió ngoài khơi có ý nghĩa lớn vì có thể kết hợp các mục tiêu tăng trưởng kinh tế xã hội, an ninh năng lượng, công nghiệp hóa với phát thải carbon thấp hướng đến mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Theo Chủ tịch HĐTV Petrovietnam, phát triển năng lượng tái tạo là một trong những định hướng lớn của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 – Net Zero vào năm 2050. Trong dự thảo Quy hoạch điện VIII sẽ có 7 GW công suất điện gió ngoài khơi dự kiến được phát triển trong giai đoạn từ nay tới năm 2030.

Trên thực tế, tại Việt Nam, tiềm năng gió ngoài khơi lớn hơn nhiều so với tiềm năng gió trên bờ do địa hình bờ biển dài và gió ngoài khơi thường có tốc độ cao, ổn định hơn. Hạ tầng cho điện gió ngoài khơi và lưới điện cũng ít bị hạn chế bởi vấn đề sử dụng đất. Hệ số công suất điện gió ở Việt Nam ước tính vào khoảng 36% cho khu vực trên bờ và 54% cho khu vực ngoài khơi. Có thể thấy, gió ngoài khơi có tốc độ ổn định hơn trong suốt cả năm so với gió trên đất liền.

Tại các tỉnh như Ninh Thuận lượng gió lớn kéo dài trong 10 tháng. Tuy nhiên do hạn chế đất liền nên lượng gió hạn hẹp vào buổi sáng không đủ để khiến các tuabin trong đất liền ở đây hoạt động hiệu quả, gần như lượng điện tới từ những nhà máy này chỉ hoạt động vào chiều gây ra không ít lãng phí về thời gian và tiền bạc.

TS Đỗ Minh Thắng, Trưởng bộ phận năng lượng, Công ty Meteodyn (Pháp) nhận định, trong xu thế giá xăng dầu ngày càng tăng và khả năng cạn kiệt trong vài chục năm tới. “Chúng ta chưa có sự lựa chọn nào khác để thay thế ngoài năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi cùng với năng lượng hạt nhân”.

Với tiềm năng hiện có, dự tính, Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển thị trường điện gió ngoài khơi với quy mô 5-10 GW vào năm 2030, giúp tạo ra tổng giá trị gia tăng hơn 60 tỷ USD cho nền kinh tế. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để có thể trở thành một trung tâm điện gió ngoài khơi lớn của thế giới. Song để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta cần hoàn thiện khung thể chế chính sách quốc gia, cần có quy hoạch tổng thể, tháo gỡ những “điểm nghẽn” để tận dụng nguồn năng lượng tái tạo trên biển này.

Khánh Linh

Khánh Linh