Lấy ý kiến xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Tài nguyên nước - Ngày đăng : 19:30, 08/12/2022

Làm việc với Cục Quản lý tài nguyên nước và các đơn vị liên quan, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành đề nghị Cục Quản lý Tài nguyên nước đôn đốc, tổng hợp ý kiến góp ý cho Dự thảo Luật Tài nguyên nước (TNN) (Sửa đổi).
tai-nguyen-nuoc.png
Xây dựng hệ thống chính sách pháp luật đồng bộ, tổng hợp, thống nhất về tài nguyên nước, đảm bảo an ninh nguồn nước.

Báo cáo tại cuộc họp, Cục trưởng Cục Quản lý TNN Châu Trần Vĩnh cho biết, ngày 20/9/2022, Bộ TN&MT đã gửi Văn bản số 5544/BTNMT-TNN đề nghị các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia để lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Luật TNN (sửa đổi). Ngày 02/11/2022, Cục đã trình Bộ ký Công văn số 6566/BTNMT-TNN đôn đốc cho ý kiến dự thảo Luật. Đến nay, Cục Quản lý TNN đã nhận được ý kiến góp ý của 20/21 bộ, cơ quan ngang bộ; 63/63 Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh/Sở TN&MT; 19/28 đơn vị trực thuộc Bộ; 10 tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức sử dụng nước lớn; 12 chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực TNN và không có ý kiến góp ý trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ tại Văn bản số 1071/TTĐT-DLĐT ngày 01/12/2022.

Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, chuyên gia; và các ý kiến góp ý tại các Hội thảo miền Bắc, miền Trung và miền Nam, Cục Quản lý TNN đã tổng hợp các nội dung góp ý, bao gồm: Cấp phép khai thác, sử dụng nước đối với mục đích không tiêu hao (tạo cảnh quan nước, sử dụng nước,…); điều hòa phân phối nguồn nước; xã hội hóa; hồ, ao không san lấp; tiền cấp quyền khai thác TNN; kinh phí từ ngân sách phát sinh sau khi sửa đổi Luật TNN.

Theo đó, về cấp phép khai thác, sử dụng nước đối với mục đích không tiêu hao (tạo cảnh quan nước, sử dụng nước,…). Trong dự thảo Luật TNN sửa đổi đã dự thảo phương án đối với mục tiêu không tiêu hao dự kiến không cấp phép, thay vào đó chỉ thực hiện có ý kiến bằng văn bản của cơ quan quản lý nước nước, cụ thể: Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để đào hồ, ao, đầm, tạo không gian thu, trữ nước, tạo cảnh quan thì phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về TNN trước khi triển khai thực hiện.

Về nội dung điều hòa phân phối nguồn nước, Dự thảo Luật TNN sửa đổi đã dự thảo quy định hàng năm Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo cơ quan chuyên môn công bố kịch bản nguồn nước trên các lưu vực sông, trên cơ sở kịch bản nguồn nước, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương theo thẩm quyền chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng nước.

Ngoài ra, dự thảo quy định bổ sung khi lưu vực sông dự báo xảy ra hạn hán, thiếu nước, quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương xây dựng phương án điều hoà, phân phối TNN để chỉ đạo lập kế hoạch khai thác, sử dụng nước cho phù hợp.

Dự kiến nội dung chính của phương án điều hòa, phân phối nguồn nước dự thảo trong Nghị định hướng dẫn gồm: Xác định lượng nước có thể khai thác trên lưu vực sông các theo kịch bản nguồn nước; Nhu cầu sử dụng nước của các ngành; Thứ tự ưu tiên sử dụng nước của các ngành, địa phương; thứ tự các đối tượng khai thác, sử dụng nước phải hạn chế lượng nước khai thác, sử dụng tương ứng với kịch bản nguồn nước; Phương án vận hành các công trình điều tiết trên lưu vực sông để đáp ứng nhu cầu nước theo kịch bản; phương án luân phiên nguồn nước có thể khai thác theo kịch bản nguồn nước; Trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương theo kịch bản nguồn nước.

Đối với vấn đề xã hội hóa, Dự thảo đã quy định cụ thể các hoạt động bảo vệ, phát triển, phục hồi nguồn nước, trữ nước được khuyến khích sử dụng nguồn vốn xã hội hoá tại Điều 73. Đồng thời quy định các Tổ chức tham gia thực hiện các hoạt động xã hội hóa được hưởng ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, vốn; miễn, giảm thuế, tiền cấp quyền khai thác TNN và các ưu đãi, hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật.

Về nội dung về hồ, ao không san lấp, Dự thảo Luật TNN sửa đổi đã quy định cụ thể danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp được, gồm: các hồ, ao, đầm, phá có chức năng điều hoà, cấp nước, phòng, chống ngập, úng, tạo cảnh quan sinh thái, có giá trị cao về đa dạng sinh học; liên quan đến hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, bảo tồn văn hóa không được san lấp và phải được lập danh mục để quản lý, bảo vệ; Danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp được lập, công bố và rà soát, điều chỉnh theo quy định. Đồng thời, quy định Chính phủ quy định chi tiết nội dung này. Dự kiến dự thảo Nghị định quy định cụ thể về tiêu chí, trình tự lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp để quản lý, bảo vệ.

Liên quan đến các ý kiến góp ý về tiền cấp quyền khai thác TNN, Dự thảo Luật TNN bổ sung quy định tiền cấp quyền cho mục đích sinh hoạt nhằm đảm bảo mục đích công bằng giữa các đối tượng sử dụng, đảm bảo mục đích nâng cao ý thức trong khai thác sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả.

Phát biểu kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Lê Công Thành đề nghị Cục Quản lý TNN tiếp tục rà soát các nội dung của Dự thảo Luật TNN (sửa đổi) nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất và tránh chồng chéo với các quy định của Chính phủ, các Luật liên quan. Đặc biệt, Cục cần rà soát kĩ về các nguồn vốn ngân sách tránh trường hợp phát sinh không hợp lý trong dự thảo Luật TNN (sửa đổi).

Trước đó, trong phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 1/2022, Chính phủ ban hành Nghị quyết 13/NQ-CP trong đó thống nhất sửa đổi Luật tài nguyên nước.

Theo Nghị quyết, Chính phủ thống nhất về sự cần thiết và mục tiêu sửa đổi Luật tài nguyên nước để giải quyết các vướng mắc do quy định hiện hành về tài nguyên nước; cập nhật, thể chế hóa quan điểm, chủ trương mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước; nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chính sách quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện, thống nhất quản lý Nhà nước về tài nguyên nước; có kế hoạch truyền thông tốt để tạo sự đồng thuận.

Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan nghiên cứu tiếp thu đầy đủ ý kiến của các Thành viên Chính phủ và hoàn thiện các chính sách cụ thể theo hướng làm rõ nội hàm khái niệm "an ninh nguồn nước" (ANNN) và "an ninh tài nguyên nước" (ANTNN); đánh giá kỹ tác động, hoàn thiện chính sách về an ninh tài nguyên nước; nghiên cứu, kế thừa nội dung của một số để án liên quan đến an ninh tài nguyên nước đang được cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định hoặc đã được phê duyệt để bảo đảm tính thống nhất, khả thi.

Đồng thời, việc xã hội hóa một số lĩnh vực tài nguyên nước cần bảo đảm ổn định phúc lợi chung cho xã hội, nhất là hạ tầng cấp nước sinh hoạt, tránh lợi dụng cơ chế làm thất thoát tài sản Nhà nước. Đồng thời, phân cấp rõ ràng cho các địa phương, bảo đảm quản lý Nhà nước thống nhất, không chồng chéo giữa các Bộ, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; tổ chức lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình soạn thảo luật, bảo đảm tính khả thi, làm tốt công tác truyền thông. Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023.

Việt Nam là nước có hệ thống sông ngòi dày đặc với 2.372 con sông và nguồn nước mưa dồi dào, mỗi năm khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình 1.500 - 2.000 mm nhưng tại Việt Nam lại đang tồn tại một nghịch lý: khi mưa nhiều thì lũ lụt, ngập úng; hết mưa thì hạn hán, thiếu nước sạch dùng cho sinh hoạt.

Dòng chảy phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở lưu vực sông Cửu Long (khoảng 57%), sông Hồng-Thái Bình (khoảng 16%), còn lại phân bố ở các lưu vực sông khác. Nguồn nước mặt còn chịu tác động từ việc khai thác, sử dụng ở thượng nguồn bên ngoài biên giới, chịu tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm gia tăng.

Nguồn nước dưới đất có trữ lượng khoảng 63 tỷ m3, hiện đang được khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vào khoảng 84 tỷ m3/năm. Nhu cầu dùng nước ở nước ta tăng 32% (khoảng 111 tỷ m3/năm) vào năm 2030 và nguy cơ mất đảm bảo ANNN ngày càng gia tăng nếu không kịp thời đánh giá và thực hiện các biện pháp đảm bảo ANNN.

Năm 2020, báo cáo giám sát ANNN và an toàn hồ đập của Ủy ban Khoa học của Quốc hội cũng đã chỉ ra một số thách thức ảnh hưởng đến ANNN tại Việt Nam như: chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng nguồn nước; chưa đảm bảo về cấp nước, an toàn hồ chứa, phụ thuộc nguồn nước ở nước ngoài, ô nhiễm, xâm nhập mặn...

Vì vậy, việc xây dựng Đề án đảm bảo ANNN quốc gia là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, nhằm từng bước nâng cao sự bảo đảm ANNN cho các trụ cột ANNN như: Môi trường; Ứng phó với các rủi ro (hạn hán thiếu nước, lũ lụt); Ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng...) thông qua các hoạt động chủ yếu về hoàn thiện, bổ sung thể chế, chính sách; Quản trị ngành nước; Các biện pháp công trình, phi công trình...

Theo tính toán, lượng nước bình quân/người tại Việt Nam đã giảm khá nhanh từ 12.800 m3 vào năm 1990, còn 9.700 m3 năm 2010 và có khả năng chỉ còn 8.300 m3/người vào năm 2025 khi dân số Việt Nam đạt 100 triệu người.

Trong khi nguồn nước ngầm đang ngày càng cạn kiệt và bị khai thác quá mức ở nhiều nơi thì nguồn nước ngọt thay thế sẽ là nguồn nước mưa và nước tái sinh. Tuy nhiên, cả 2 nguồn nước này đang chưa được quan tâm đúng mức.

Kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, an toàn, công bằng, hợp lý, gắn với bảo vệ và phát triển tài nguyên nước, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; Kiểm soát trên 90% các nguồn thải vào nguồn nước có vai trò quan trọng trong cấp nước được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; Cải thiện, phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng; Bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái ngập nước quan trọng…

Đồng thời, cần cải thiện việc cung cấp dịch vụ cấp nước đô thị, nông thôn, nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư đô thị đạt khoảng 95 - 100%, nông thôn đạt khoảng 93 - 95%; đảm bảo an ninh lương thực thông qua việc vận hành hiệu quả các công trình thuỷ lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu…

Chính vì thế mà để đảm bảo nguồn nước trong các mùa trong năm phục vụ sinh hoạt và sản xuất là vấn đề đặt ra cho cơ quan chức năng.

Minh Khuê