Đưa Luật Bảo vệ môi trường 2020 vào cuộc sống
Bảo vệ môi trường - Ngày đăng : 10:30, 24/01/2023
>> Những biện pháp bảo vệ môi trường sống>
Quan điểm, định hướng của Đảng về bảo vệ môi trường
Tại các Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX), Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI), Kết luận số 56-KL/TW, ngày 23/8/2014 của Bộ Chính trị, Văn kiện Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII, XIII, Đảng ta cũng đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể để BVMT như: Phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đối với môi trường; Khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; Điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa dạng sinh học; Giữ gìn vệ sinh, bảo vệ và tôn tạo cảnh quan môi trường; Đáp ứng yêu cầu về môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế; Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, ban hành bộ chỉ số đánh giá kết quả phát triển kinh tế bền vững tăng trưởng xanh đưa vào bộ tiêu chí quốc gia; Phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường…
Theo đó, các giải pháp được đề ra cần thực hiện gồm: Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm về chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục để tạo sự thống nhất trong toàn xã hội về nhận thức và hành động trước tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai cực đoan, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường; Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và BVMT, theo hướng khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và BVMT... tăng cường, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực của cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu; Nâng cao năng lực, hiệu quả thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm về tài nguyên, môi trường...
Từ ngày 1/1/2022, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 gồm 16 chương, 171 Điều có hiệu lực. Luật quy định, thể hiện rõ mục tiêu xuyên suốt bảo vệ các thành phần môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 với nhiều điểm mới
Vào ngày 17/11/2020, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường 2020 (Luật BVMT 2020) thay thế Luật Bảo vệ môi trường 2014 để tạo ra một khung hành lang pháp lý xuyên suốt, những cơ chế linh hoạt trong công tác bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, đáp ứng tiêu chuẩn phát triển của xã hội. Luật BVMT 2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 (riêng Khoản 3 Điều 29 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2021), gồm 16 chương, 171 Điều, thêm mới gần 70 Điều và bãi bỏ gần 50 Điều so với Luật BVMT 2014, được kết cấu lại theo hướng đưa các quy định chi tiết về bảo vệ thành phần môi trường lên đầu để thể hiện sự quan tâm đến môi trường đất nước, sức khỏe nhân dân của Nhà nước.
Luật BVMT 2020 có một số điểm mới nổi bật như sau:
Thứ nhất, thay đổi mạnh mẽ tư duy quản lý Nhà nước về môi trường
Trước hết, thông qua việc thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên quy luật tự nhiên, không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là sự phòng ngừa, kiểm soát, xử lý chất thải mà các hoạt động sản xuất, phát triển phải hài hòa với tự nhiên, khuyến khích bảo vệ và phát triển tự nhiên. Do vậy, Luật BVMT 2020 tiếp cận phương pháp quản lý môi trường xuyên suốt, khoa học đối với các dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi trường, sàng lọc, không khuyến khích các dự án không tuân theo quy luật tự nhiên, chiếm dụng lớn diện tích rừng, đất lúa, có nguy cơ gây lũ lụt, suy thoái, cạn kiệt dòng chảy, tác động đến các di sản tự nhiên, khu bảo tồn; áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn từ việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, chương trình đến thực hiện dự án đầu tư. Đồng thời, Luật dành riêng Chương VIII để quy định các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm để người dân Việt Nam được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với các nước trên thế giới và hài hòa với quy định của quốc tế, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, để tạo động lực phát triển bền vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng và sự thịnh vượng quốc gia, Luật cũng đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và nguồn lực cho BVMT. Trong đó có quy định các chính sách về phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; ưu tiên thực hiện mua sắm xanh đối với dự án, nhiệm vụ sử dụng ngân sách Nhà nước; thúc đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên (đặc biệt là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn); bổ sung chính sách về tín dụng xanh, trái phiếu xanh để huy động đa dạng các nguồn lực xã hội cho BVMT.
Lần đầu tiên quy định chế định cụ thể về kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường của cơ sở sản xuất – kinh doanh, dịch vụ. Quy định này điều chỉnh hoạt động kiểm toán trong nội bộ tổ chức, cơ sở sản xuất – kinh doanh, dịch vụ (gọi chung là doanh nghiệp) do đơn vị tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ kiểm toán. Mục đích của hoạt động này là nhằm tăng cường năng lực quản lý môi trường của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận biết lỗ hổng trong quản lý môi trường và có giải pháp điều chỉnh hoạt động quản lý môi trường được hiệu quả hơn. Đây là kết quả của việc tiếp thu kinh nghiệm thành công của quốc tế về kiểm toán môi trường được áp dụng đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tiết kiệm tài nguyên, quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm và BVMT. Ngoài ra, Luật bổ sung quy định Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước và pháp luật có liên quan.
Thứ hai, bổ sung chủ thể “cộng đồng dân cư”
Thời gian qua, cộng đồng dân cư đã thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong công tác BVMT, tiêu biểu nhất là thông qua việc hình thành các mô hình cộng đồng tham gia BVMT hiệu quả, thiết thực. Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định cộng đồng dân cư là một chủ thể trong công tác BVMT, do đó, chưa phát huy được vai trò quan trọng của cộng đồng dân cư. Vì vậy, Luật BVMT lần này đã bổ sung “cộng đồng dân cư” ngay vào phạm vi điều chỉnh (Điều 1) và đối tượng áp dụng (Điều 2) nhằm khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác BVMT cũng như thực hiện một trong những mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm người dân được sống trong môi trường trong lành. Đây cũng là lần đầu tiên cộng đồng dân cư được quy định là một chủ thể trong công tác BVMT.
Lần đầu tiên nội dung trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham vấn cộng đồng dân cư được quy định ngay từ khi lập báo cáo tác động môi trường, cũng như quy định rõ trách nhiệm thực hiện tham vấn, đối tượng tham vấn, nội dung tham vấn của cơ quan thẩm định trong quá trình thẩm định báo cáo tác động môi trường thông qua nhiều hình thức. Ngoài ra, Luật cũng quy định tăng cường công khai thông tin, tham vấn, phát huy vai trò giám sát, phản biện, đồng thời bảo đảm được quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư khi tham gia các hoạt động BVMT.
Nhằm tạo thuận lợi cho cộng đồng dân cư phát huy vai trò trong công tác BVMT, quy định tại Điều 159 đã xác lập, thể hiện rõ quyền, trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong BVMT và các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước đối với cộng đồng dân cư tham gia BVMT. Đặc biệt, đã bổ sung quy định “Cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường các cấp có trách nhiệm xây dựng hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý, trả lời phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về bảo vệ môi trường”. Người dân có thể tham gia giám sát thông qua công nghệ thông tin, qua các ứng dụng trên điện thoại.
Để ghi nhận, tôn vinh cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có đóng góp tích cực trong hoạt động BVMT, Luật cũng đã bổ sung chính sách về “Bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường; ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; thúc đẩy sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường” (khoản 6 Điều 5).
Thứ ba, thẩm quyền quản lý Nhà nước được thống nhất, nâng cao trách nhiệm của bộ máy chính quyền địa phương
Theo Luật BVMT 2014, một dự án cần phải thực hiện song song rất nhiều thủ tục để xin cấp giấy phép con tại các cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau, dẫn đến tình trạng việc quản lý môi trường không đồng nhất, chồng chéo, các cơ quan khác nhau khó để phối hợp với nhau thường xuyên, hiệu quả làm thời gian thực hiện Dự án kéo dài. Để giải quyết tình trạng trên, Luật BVMT 2020 đã bãi bỏ thủ tục xin cấp giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi để lồng ghép nội dung của giấy phép trên vào Giấy phép môi trường nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết và nguyên tắc quản lý.
Theo khoản 3 Điều 35 Luật BVMT 2020, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền: “Tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với dự án đầu tư trên địa bàn, trừ đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án phải thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của mình”. Như vậy, bộ máy quản lý Nhà nước ở địa phương sẽ có nhiều trách nhiệm hơn, không chỉ với những Dự án thuộc thẩm quyền quyết định của mình mà còn với những Dự án thuộc thẩm quyền quyết định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Quy định này được ra đời để đảm bảo thống nhất việc quản lý tại địa phương, đồng thời dễ dàng hơn trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, cấp phép sau này, làm giảm gánh nặng cho bộ máy trung ương và phát huy được tiềm lực của bộ máy địa phương.
Thứ tư, điểm mới trong Giấy phép Môi trường
Theo đó, có 4 thủ tục hành chính cắt giảm, tích hợp gồm: Thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước; cấp giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi; Tích hợp nhiều loại giấy phép về môi trường vào một loại giấy phép môi trường.
Theo các chuyên gia, Luật Bảo vệ môi trường 2020 được sửa đổi rất công phu với nhiều điểm đột phá không chỉ giải quyết được những chồng chéo, bất cập giữa pháp luật về Bảo vệ môi trường mà còn khởi đầu cho việc cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi trường.
Đơn cử đối với giấy phép môi trường, đây là một sự cải cách hành chính chưa từng có khi 7 nội dung trước đây được đưa vào 1 giấy phép môi trường (GPMT) giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm và giảm thiểu đáng kể được các quy trình, thủ tục.
Cụ thể, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình thủy lợi mà lồng ghép nội dung này trong giấy phép môi trường nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền và nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước; đồng thời giảm đáng kể thủ tục hành chính (TTHC) cho doanh nghiệp. Cùng với đó, bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền tham gia, phản biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công trình thủy lợi ngay từ giai đoạn tác động môi trường cho đến khi cấp GPMT đối với cơ sở xả nước thải vào công trình thủy lợi nhằm tăng cường phối hợp của các cơ quan.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân khẳng định: Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã có bước tiến “đột phá” cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm tới 40% TTHC, giảm thời gian thực hiện các TTHC từ 20 – 85 ngày, góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với quy trình đánh giá tác động môi trường, Luật đã đưa ra những quy định đánh giá một cách thận trọng, cân nhắc dựa trên nhiều tiêu chí về môi trường. Với những điểm đột phá này, các thủ tục, hồ sơ sẽ giảm khoảng 50% thời gian giải quyết. Điều này mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người dân. Đặc biệt, chất lượng môi trường chắc chắn sẽ được kiểm soát hơn nhiều so với trước đây.
Thứ năm, phân loại rác thải tại nguồn, khuyến khích tái chế, tái sử dụng rác thải
Một điểm đột phá lớn không thể không nhắc đến, đó là trước thực trạng tỷ lệ chôn lấp rác thải ở Việt Nam còn cao do rác thải chưa được phân loại dẫn đến khó khăn trong xử lý, Điều 136 của Luật đã quy định việc thu phí rác thải dựa trên “khối lượng, mức độ độc hại của chất ô nhiễm thải ra môi trường,…”, thay vì việc tính bình quân theo hộ gia đình hoặc đầu người như hiện nay.
Theo đó, quy định rác thải sinh hoạt phải được phân chia làm ba loại: Chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế; chất thải thực phẩm; chất thải rắn sinh hoạt khác (Điều 75). Mô hình và cơ chế quản lý này đã được chứng minh hiệu quả ở nhiều quốc gia phát triển. Đặc biệt, việc thu phí xử lý rác thải qua hình thức bán bao bì, thiết bị đựng rác cũng được các quốc gia như: Nhật Bản, Hàn Quốc… áp dụng khá thành công.
Bên cạnh đó, rác thải sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân khu vực nông thôn sau khi phân loại được khuyến khích tận dụng tối đa lượng chất thải thực phẩm để làm phân bón hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi phù hợp với điều kiện nông thôn tại Việt Nam (Điều 61).
Ngoài ra, lần đầu tiên Luật quy định trách nhiệm mở rộng của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì có khả năng tái chế hoặc khó có khả năng tái chế phải thu hồi với tỷ lệ và quy cách bắt buộc hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ hay cơ chế đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu (Điều 54).
Luật cũng bổ sung nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước. Quy định buộc phải lồng ghép và thúc đẩy các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án về phát triển kinh tế - xã hội, Luật Bảo vệ môi trường 2020 mở ra cơ hội để tài nguyên như đất, nước, rừng không bị hủy hoại, sử dụng lãng phí.