Tăng trưởng xanh tại Việt Nam - Bài 2: Chính sách để phát triển bền vững
Môi trường - Tài nguyên - Ngày đăng : 12:30, 14/04/2023
Những chính sách của Việt Nam trong thời gian qua
Nhận thức được những tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống của người dân, trong những năm qua, Việt Nam đã có hàng loạt văn bản pháp luật, chính sách về tăng trưởng xanh, như:
“Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020” nhấn mạnh, để thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững, cần phải: đẩy mạnh áp dụng rộng rãi sản xuất sạch hơn; nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, bảo vệ chất lượng môi trường, sức khỏe con người, đảm bảo phát triển bền vững; xây dựng văn hóa tiêu dùng văn minh, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên; từng bước thực hiện dán nhãn sinh thái, mua sắm xanh; phát triển thị trường sản phẩm sinh thái và sáng kiến cộng đồng về sản xuất và tiêu dùng bền vững; áp dụng các chính sách điều chỉnh những hành vi tiêu dùng không hợp lý.
Theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg, Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050, trong đó, 2 nhiệm vụ chiến lược được đề ra gồm: 1) Xanh hóa sản xuất; thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa sạch thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; khuyến khích phát triển công nghệ xanh, nông nghiệp xanh; 2) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; kết hợp lối sống đẹp truyền thống với những phương tiện văn minh hiện đại.
Đồng thời, Chính phủ cũng thông qua Bộ Chỉ tiêu giám sát phát triển bền vững, mà quan trọng nhất là Chỉ tiêu GDP xanh, Chỉ tiêu năng lượng trên đơn vị GDP tăng thêm và Chỉ số bền vững về môi trường, bắt đầu được thực hiện từ năm 2015.
Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020, trong đó, đề ra 4 nội dung chính gồm: Xây dựng thể chế và kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương; Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Thực hiện xanh hóa sản xuất; Thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững.
Ngày 19/1/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 84/QĐ-TTg Phê duyệt Kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030.
Quốc hội cũng đã ban hành mới, hoặc bổ sung, sửa đổi một số luật liên quan đến tăng trưởng xanh như: Luật Bảo vệ môi trường (1991, 1993, 2005), Luật Bảo vệ và phát triển rừng (1991, 2004), Luật Dầu khí (1993, 2000, 2008), Luật Khoáng sản (1993, 2005, 2010), Luật Tài nguyên nước (1998, 2012), Luật Đất đai (2003, 2013), Luật Hóa chất (2007), Luật Đa dạng sinh học (2008), Luật Thuế tài nguyên (2009), Luật Quy hoạch đô thị (2009), Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (2010), Luật Thuế bảo vệ môi trường (2010), Luật Biển Việt Nam (2012), Luật Phòng, chống thiên tai (2013), Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015), Luật Thủy lợi (2017), Luật Thủy sản (2017), Luật Lâm nghiệp (2017),...
Để đảm bảo thực thi Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, hàng loạt các chính sách hỗ trợ cũng được ban hành như: 1). Chính sách tín dụng xanh được đẩy mạnh thông qua các kênh cho vay hỗ trợ lãi suất đối với hoạt động dự án bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch; 2). Chính sách thuế tài nguyên với nguyên tắc “tài nguyên không có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất cao, “tài nguyên có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất thấp; 3). Các chính sách thuế từng bước được hoàn thiện theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và hỗ trợ cho việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia; 4). Chính sách chi ngân sách nhà nước cũng được chú trọng theo hướng ưu tiên các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến bảo vệ môi trường.
Như vậy, chính sách tăng trưởng xanh đã được chú trọng xây dựng ở nhiều ngành, lĩnh vực để đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện chính sách tăng trưởng xanh của Việt Nam còn một số khó khăn, hạn chế gồm:
Thứ nhất, nhận thức của bộ, ngành và chính quyền địa phương về chiến lược tăng trưởng xanh chưa rõ ràng.
Thứ hai, các dự án mà bộ, ngành, địa phương đã và đang được thực hiện liên quan đến Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đều dựa trên sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ (NGO), chứ chưa xuất phát từ năng lực nội sinh của bộ, ngành, địa phương.
Thứ ba, hiện nay có sự xung đột, trùng lặp nhau về mục tiêu giữa các chiến lược: Chiến lược phát triển bền vững; Chiến lược quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu; Chiến lược tăng trưởng xanh,... Các địa phương không rõ cần thực hiện Chiến lược nào, cơ quan nào làm đầu mối thực hiện.
Thứ tư, nguồn lực thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh hiện nay chưa rõ ràng, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm kinh tế và cắt giảm đầu tư công.
Thứ năm, dù việc áp dụng, lồng ghép Chiến lược tăng trưởng xanh vào các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương đã đạt được một số thành tựu nhất định, song nhiều địa phương đang đối mặt với không ít thách thức. Tại một số địa phương, dù kế hoạch hành động tăng trưởng xanh đã được phê duyệt và ban hành, nhưng thay đổi trong cơ cấu sản xuất cũng như các kết quả đạt được chưa rõ ràng do thiếu các nhóm giải pháp cụ thể và chưa thật sự khả thi đối với hoàn cảnh của từng địa phương.
Thứ sáu, trong khi mô hình tăng trưởng mới chưa được xác lập trong ngắn hạn và trung hạn thì liệu các mục tiêu của chiến lược tăng trưởng xanh có được hoàn thành?
Cam kết gắn liền với hiệu quả thực thi
Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, đang đặt ra những thách thức to lớn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Đó cũng là lý do mà các lãnh đạo quốc gia đã nhóm họp thường niên Hội nghị các bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP).
COP 26 là Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu lớn nhất kể từ hội nghị lịch sử ở Paris năm 2015 tạo bước tiến quan trọng trong việc đặt ra các mục tiêu về khí thải trên toàn thế giới nhằm làm chậm lại quá trình trái đất ấm lên; cơ hội để giúp thế giới phục hồi sau đại dịch theo hướng thân thiện với biến đổi khí hậu…
Tham dự COP 26, Việt Nam truyền đi thông điệp về những thách thức, tác động nghiêm trọng và sự chủ động, tích cực của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
“Hành trang” được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam mang đến Hội nghị COP 26 chính là Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 được ban hành trước Hội nghị tròn 1 tháng (1/10/2021). Chiến lược đặt ra 3 mục tiêu quan trọng là giảm phát thải, xanh hóa các ngành kinh tế, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Điều này cho thấy quyết tâm và nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy và thực thi các cam kết quốc tế, nhất là trong các vấn đề toàn cầu, đang được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm.
Phát biểu tại Hội nghị COP 26, Thủ tướng Phạm Minh Chính cam kết: “Mặc dù là nước đang phát triển mới chỉ bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ hơn nữa bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ; trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050″.
Cũng tại Hội nghị COP 26, trong bản cam kết của mình, hay còn gọi là đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) mới nhất, Việt Nam cũng đã cam kết giảm 9% lượng phát thải bằng nội lực và 27% nếu có sự hỗ trợ của nước ngoài. Ngừng sử dụng than là yếu tố vô cùng quan trọng để đạt được các mục tiêu khí hậu đề ra trên quy mô toàn cầu.
Cùng với đó, Chính phủ Anh ra “Tuyên bố Chuyển đổi từ Than sang Điện sạch Toàn cầu”; trong đó 190 quốc gia cam kết dần loại than đá khỏi sản xuất điện và ngừng ủng hộ xây nhà máy điện than mới. Việt Nam nằm trong nhóm 23 nước lần đầu tiên cam kết từng bước từ bỏ điện than, không xây dựng hoặc đầu tư nhà máy phát điện mới.
Những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại COP 26 đã nhận được những đánh giá tích cực của dư luận quốc tế. Cộng đồng quốc tế đã thấy rõ hơn chủ trương, quyết tâm, nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu mặc dù là một nước đang phát triển, xuất phát điểm thấp, trải qua chiến tranh kéo dài, còn nhiều khó khăn. Trên thực tế, Việt Nam đã và đang từng bước nỗ lực vượt qua những khó khăn, trở ngại để biến quyết tâm thành hành động, cam kết gắn liền với hiệu quả thực thi.
Theo Phó Chủ tịch Mạng lưới Việt Nam – Anh, ông Paul Smith, mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cho thấy cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc tham gia vào nỗ lực toàn cầu chống biến đổi khí hậu, đồng thời chứng tỏ vai trò dẫn dắt của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Ông Smith cho rằng, cam kết này hài hòa và phù hợp với bối cảnh của Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất của tình trạng nước biển dâng. Thêm vào đó, Việt Nam là nước mới thực hiện công nghiệp hóa trong 3 thập kỷ qua, vì vậy có lợi thế khi chuyển đổi sang nền kinh tế phát thải thấp vì không phải gánh những hậu quả từ công nghiệp hóa như các nước phát triển lâu năm.
Ông William Young, chuyên gia về an ninh môi trường của Hội đồng Địa chiến lược Anh cho rằng cam kết của Việt Nam tại COP 26 đã khiến thế giới nhìn nhận rõ vai trò lãnh đạo của Việt Nam trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Cam kết này đồng thời chỉ ra những cơ hội phát triển kinh tế, cơ hội tạo ra những ngành công nghiệp mới và các cơ hội đầu tư khác tại Việt Nam.
Theo Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam – ông Gareth Ward: “Việt Nam có thể đi xa hơn và đạt được nhiều hơn mục tiêu đã đặt ra. Ở Việt Nam, 70% khí phát thải đến từ công nghiệp năng lượng; trong đó hầu hết là từ việc sản xuất điện. Vì vậy, nếu Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ than sang điện gió, điện mặt trời thì hoàn toàn có thể nâng mục tiêu của mình lên đáng kể, đóng góp nhiều hơn cho những nỗ lực chung của toàn cầu.