Từng bước nỗ lực giảm thiểu rác thải nhựa tại Việt Nam

Ô nhiễm môi trường - Ngày đăng : 08:30, 05/06/2023

Giải quyết ô nhiễm rác thải nhựa từ lâu đã luôn là vấn đề cấp bách trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhận thức rõ được sự cấp thiết của vấn đề này, Chính phủ Việt Nam đã rất chủ động trong việc nêu ra vấn đề, kêu gọi hợp tác cùng hành động của cộng đồng quốc tế, và đã đưa ra định hướng và các chính sách cụ thể.

Theo báo cáo hiện trạng chất thải nhựa năm 2022, tổng khối lượng chất thải nhựa phát sinh là 2,9 triệu tấn (gồm 1,6 triệu tấn ở đô thị, 1,3 triệu tấn ở nông thôn) và có tốc độ gia tăng khoảng 5%/năm. Tổng lượng rác thải nhựa được thu gom là 2,4 triệu tấn (1,55 triệu tấn ở đô thị, 0,85 triệu tấn ở nông thôn). Tuy nhiên, chỉ có 0,9 triệu tấn rác thải nhựa được phân loại cho tái chế và 0,77 triệu tấn rác được tái chế. Tổng thất thoát chất thải nhựa vào môi trường là 0,42 triệu tấn.

Giảm thiểu rác thải nhựa bằng công cụ chính sách

Nhận thức rõ được sự cấp thiết của vấn đề ô nhiễm nhựa, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng và các chính sách cụ thể để giải quyết tình trạng này, như Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương, đặt mục tiêu giảm 75% lượng nhựa thải ra đại dương vào năm 2030. Kế hoạch hành động đề cập đến việc nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi, tăng cường thu gom và xử lý rác thải nhựa và kiểm soát nguồn rò rỉ nhựa cũng như nhu cầu hợp tác quốc tế, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ liên quan đến vấn đề chất thải nhựa.

rac-thai-nhua-6.jpg
Giảm thiểu rác thải nhựa tại Việt Nam là một trong những vấn đề môi trường cấp thiết hiện nay

Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 08/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đã đưa ra các quy định về kinh tế tuần hoàn. Các giải pháp cụ thể bao gồm: Lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa; thúc đẩy các vật liệu thay thế thân thiện với môi trường, hạn chế các sản phẩm chứa vi nhựa và kiểm soát nhập khẩu phế liệu nhựa; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR); phân loại tại nguồn và thu phí rác theo khối lượng.

Đề án tăng cường quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam tập trung vào thu gom, tái chế và xử lý 85% lượng chất thải nhựa vào năm 2025. Đề án đặt ra yêu cầu các Bộ, ngành liên quan thực hiện xây dựng chính sách, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, sửa đổi thuế và kiểm soát nhập khẩu nhựa phế liệu, trong khi yêu cầu các tỉnh và thành phố xây dựng kế hoạch quản lý chất thải nhựa tại mỗi địa phương.

NPAP – nền tảng giải quyết hiệu quả ô nhiễm nhựa

Việt Nam đã thành lập Chương trình đối tác hành động Quốc gia về nhựa (NPAP) trên cơ sở thỏa thuận hợp tác giữa Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) và Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT). Đây là nền tảng đối tác đa phương, đa chủ thể được chính phủ thiết lập, cho phép thực hiện hợp tác giữa chính phủ và đối tác quốc gia quan trọng khác để chuyển những cam kết về rác thải nhựa và ô nhiễm nhựa thành hành động cụ thể.

Qua hai năm triển khai, Chương trình NPAP đã đạt được một số kết quả khả quan, tạo sự lan tỏa ý nghĩa về việc nâng cao ý thức, trách nhiệm, góp phần tạo sự thống nhất trong hành động của các cấp, các ngành và sự ủng hộ của người dân nhiều địa phương trên cả nước đối với vấn đề ô nhiễm nhựa. Cụ thể, Chương trình góp phần tăng cường thực thi chính sách, quy định của nhà nước thông qua hỗ trợ xây dựng một số nội dung của Luật BVMT 2020 và Thông tư hướng dẫn thực hiện và hỗ trợ đẩy mạnh thực hiện Luật và Kế hoạch hành động về quản lý rác thải nhựa.

rac-thai-nhua-7.jpg
Người dân tham gia dọn rác ven biển

Chương trình NPAP cũng hỗ trợ Việt Nam tham gia Thỏa thuận Toàn cầu về chấm dứt ô nhiễm nhựa bằng cách huy động nguồn lực và sự điều phối sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong quá trình chuẩn bị dữ liệu, thông tin ở từng vòng đàm phán. Đồng thời, Chương trình cũng đã xây dựng báo cáo nghiên cứu đánh giá tình hình phát sinh, quản lý rác thải nhựa và đề xuất giải pháp, lộ trình giảm thiểu ô nhiễm rác thải nhựa ở Việt Nam; hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về ô nhiễm rác thải nhựa đại dương; xúc tiến một số dự án mới thông qua nền tảng NPAP với sự tham gia tích cực và gắn kết các thành viên. Ngoài ra, chương trình cũng thu hút sự tham gia tích cực từ các khối công và tư trong việc giảm thiểu nhựa dùng 1 lần và tăng cường bình đẳng giới và hòa nhập xã hội trong ngành nhựa.

Kế hoạch trong năm 2023, Chương trình NPAP sẽ tiếp tục rà soát chính sách và tổ chức đối thoại chính sách để thúc đẩy quản lý hiệu quả rác thải nhựa và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn; đánh giá tác động và các cơ hội của Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đối với doanh nghiệp; thúc đẩy hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện EPR; thúc đẩy phân loại rác tại nguồn và tái chế; thúc đẩy các sáng kiến đổi mới sáng tạo về tái chế nhựa tại các khu vực ven biển; thành nhập các Nhóm kỹ thuật tập trung thúc đẩy chính sách, đổi mới sáng tạo và khơi nguồn tài chính, giới và phát triển toàn diện.

Việc giải quyết ô nhiễm nhựa sẽ là một quá trình lâu dài, cần huy động sự tham gia hiệu quả hơn nữa của toàn xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế nhằm quản lý, xử lý chất thải nhựa, biến thách thức nhựa thành cơ hội trên cơ sở phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức ứng dụng công nghệ cao, qua đó đóng góp vào nỗ lực chung toàn cầu.

Tại nhiều diễn đàn quốc tế, Việt Nam đã đề xuất các sáng kiến và tham gia cơ chế hợp tác toàn cầu, khu vực để giải quyết rác thải nhựa. Đặc biệt, Việt Nam đã cùng 175 quốc gia trên thế giới thông qua Nghị quyết 5/14 tại Hội nghị đại hội đồng môi trường toàn cầu lần 2 (UNEA5.2), thống nhất việc xây dựng một “Công cụ toàn cầu có tính ràng buộc pháp lý về chấm dứt ô nhiễm nhựa, bao gồm rác thải nhựa đại dương”.

Theo ông Hoàng Xuân Huy – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ TN&MT, Bộ TN&MT là cơ quan chủ trì đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tham gia đàm phán và thành lập Ban công tác đàm phán để chính thức tham gia đàm phán Thỏa thuận từ tháng 6/2023 đến hết năm 2024.

Về thủ tục, sau khi tham gia đàm phán và ký kết một thỏa thuận quốc tế, Chính phủ sẽ phê chuẩn và nội luật hóa các nghĩa vụ cam kết trong thỏa thuận. Nói cách khác, đây là việc một số chính sách sẽ được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với những gì Việt Nam đã cam kết trong thỏa thuận.

Ông Huy cho rằng, ngoài sự tham gia của chính phủ, khối tư nhân cũng cần có những chuẩn bị để sẵn sàng đáp ứng khi Việt Nam tham gia Thỏa thuận này. Một số nội dung khối tư nhân cần chuẩn bị đó là: Loại bỏ nhựa có vấn đề, Yêu cầu về thiết kế sản phẩm, Chương trình trách nhiệm của nhà sản xuất mở rộng (EPR); Định nghĩa và tiêu chuẩn tái chế; Nghiên cứu các công nghệ, các mô hình, giải pháp của các quốc gia trong giảm thiểu ô nhiễm nhựa.

Ngoài ra, khối tư nhân cần cung cấp, chia sẻ các số liệu về ngành nhựa; Tham gia các hoạt động khảo sát; Đóng góp trong quá trình xây dựng các kịch bản, phương án đàm phán của Bộ TNMT; cùng Chính phủ/ Bộ TNMT nghiên cứu các điều kiện của Việt Nam và nghiên cứu lộ trình thực hiện các nghĩa vụ bắt buộc tại Thỏa thuận; Đề xuất, góp ý các giải pháp (công nghệ, chính sách, tài chính….) cho việc thực thi; Tham gia hỗ trợ nguồn lực (tham vấn, truyền thông, nghiên cứu, đánh giá tác động, tăng cường năng lực, chuyển giao công nghệ…..).

Lan Trinh