8 tháng đầu năm, cả nước thu gần 2.000 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng

Bảo vệ môi trường - Ngày đăng : 13:30, 07/09/2023

Theo Bộ NN&PTNT, qua 8 tháng cả nước đã thu về gần 2.000 tỷ đồng tiền dịch vụ môi trường rừng, đạt 59,8% kế hoạch năm, giảm 18% so với cùng kỳ năm ngoái.

Kế hoạch thu tiền dịch vụ môi trường rừng năm 2023 là 3.200 tỷ đồng. Trong khi đó năm 2022, tổng số thu tiền dịch vụ môi trường rừng cả nước đạt trên 3.700 tỷ đồng, vượt 23% so với kế hoạch và tăng 17% so với năm 2021.

Nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng được đánh giá là nguồn tài chính quan trọng và bền vững của ngành lâm nghiệp, phục vụ đắc lực cho quản lý, bảo vệ rừng. Đồng thời, góp phần cải thiện sinh kế cho người làm nghề rừng, sống phụ thuộc vào rừng mà chủ yếu là đồng bào nghèo miền núi, vùng sâu, vùng xa.

rung.jpg
Ảnh minh họa

Tuy 8 tháng đầu năm đã đạt gần 60% kế hoạch thu đề ra nhưng con số này vẫn giảm 18% so với cùng kỳ năm trước. Theo ông Lê Văn Thanh, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam, quý III hàng năm mới là thời gian cao điểm thu tiền dịch môi trường rừng. Hai quý đầu năm nay lượng mưa sụt giảm đáng kể, nước về các hồ thủy điện ít đi, chính vì thiếu nước phát điện nên nguồn thu giảm. Sản lượng điện tiêu thụ của các địa phương cũng giảm nên tác động đến nguồn thu tiền dịch vụ môi trường rừng.

Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam cũng nhấn mạnh, với kế hoạch thu đặt ra năm 2023 là 3.200 tỷ đồng sẽ cơ bản đảm bảo, bởi năm nay, Việt Nam sẽ có thêm nguồn thu dịch vụ môi trường rừng mới từ Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA).

Đến nay, cả nước có 718 chủ rừng đang quản lý 7,65 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp; có 417 phương án quản lý rừng bền vững được phê duyệt, đạt 58% tổng số phương án cần phê duyệt; có 445.500 ha được cấp chứng chỉ rừng (rừng phòng hộ 38.565 ha, rừng trồng sản xuất 407.000 ha).

Trong tháng 8, cả nước chuẩn bị được 49 triệu cây giống; trồng được 18.700 ha rừng, giảm 28,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.838.800 m3, tăng 2,1%. Lũy kế 8 tháng, cả nước chuẩn bị trên 761,2 triệu cây giống; trồng được 151.800 ha rừng, giảm 3,3%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 12.357.400 m3, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Hiện Bộ NN&PTNT tiếp tục theo dõi, đôn đốc các địa phương chuẩn bị đủ cây giống, hiện trường để trồng rừng theo kế hoạch, chủ động kiểm soát chất lượng giống cây trồng lâm nghiệp. Thời điểm này, diện tích rừng tại các tỉnh khu vực Trung Bộ và Nam Trung Bộ, thời tiết hanh khô, nắng nóng, gió Phơn Tây Nam hoạt động mạnh nguy cơ cháy rừng ở mức cao, cấp IV-cấp V, (cấp nguy hiểm và cực kỳ nguy hiểm); cháy rừng liên tiếp xảy ra tại một số địa phương thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Phú Yên, gây thiệt hại đến tài nguyên rừng và ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái.

Bộ NN&PTNT đang đẩy mạnh tuyên truyền, cảnh báo nguy cơ cháy rừng; chỉ đạo, đôn đốc hệ thống kiểm lâm thực hiện các biện pháp phòng chống cháy rừng, bố trí lực lượng thường trực tại các vùng có nguy cơ cháy cao. Đồng thời, chỉ đạo, đôn đốc thực hiện nghiêm các công điện về việc tăng cường các biện pháp cấp bách phòng cháy, chữa cháy rừng.

Nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng được đánh giá là nguồn tài chính quan trọng và bền vững của ngành lâm nghiệp, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, bảo vệ rừng, đồng thời góp phần cải thiện sinh kế cho người làm nghề rừng, sống phụ thuộc vào rừng mà chủ yếu là đồng bào nghèo miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa, chính sách còn đóng vai trò đáng kể trong thành tích chung của toàn ngành nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Theo quy định hiện hành, các đối tượng phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng là các cơ sở sản xuất thủy điện; Cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch; Cơ sở sản xuất công nghiệp; Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; Các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh gây phát thải khí nhà kính lớn; Các cơ sở nuôi trồng thủy sản.

Hiện tại, các loại dịch vụ môi trường rừng được quy định cụ thể như sau: Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; Điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội; Hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng; Giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh; Bảo vệ, duy trì vẻ đẹp cảnh quan tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng cho kinh doanh dịch vụ du lịch; Cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn, con giống tự nhiên, nguồn nước từ rừng và các yếu tố từ môi trường, hệ sinh thái rừng để nuôi trồng thủy sản.

Anh Hoàng