Giải toả cơn khát nước sạch (Bài 2): Nguồn nước cạn kiệt vì ô nhiễm

Tài nguyên nước - Ngày đăng : 09:30, 27/09/2023

Nước sạch đóng vai trò thiết yếu đối với mỗi người và quá trình phát triển của một quốc gia. Nhưng thực tế, người tiêu dùng nhiều nơi thường xuyên gặp cảnh mất nước hoặc chất lượng nước không đảm bảo, cơn khát nước sạch càng nóng trong những tháng cao điểm mùa hè, có khi còn là cảnh thiếu nước ngay giữa mùa mưa, thậm chí là sống cạnh công trình cấp nước những vẫn không có nước sạch để sử dụng.

Hệ thống sông ngòi dày đặc nhưng có thể bị thiếu nước sạch

Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc thế nhưng lại được cảnh báo có thể sẽ thiếu nước trong 10 năm tới.

Ô nhiễm là một trong những nguyên nhân chính gây ra thiếu nước. Theo báo cáo, hiện nay, hơn 70% lượng nước ở các sông trên toàn quốc không thể dùng để ăn uống hay tắm rửa. Dự báo của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng, nếu không giải quyết được tình trạng ô nhiễm này, Việt Nam không chỉ thiếu nước sạch để sử dụng mà còn phải mua nước với giá cao và mất đến 4% GDP vào năm 2035.

nuoc-sach-1.jpg
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc, với nhiều sông lớn nhưng Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc, với nhiều sông lớn nhưng vẫn đứng trước nguy cơ thiếu nước sạch

PGS.TS Hoàng Thị Thu Hương, Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết: "Một số vùng có amoni cao như Hà Nam và Ứng Hòa, Hà Nội. Dù đã được cung cấp nước sạch nhưng nhiều bà con vẫn còn dùng nước ngầm có hàm lượng amoni rất cao".

Đến năm 2025 sẽ tái sử dụng từ 20- 30% nước để giảm sức ép với tài nguyên. Trong những năm tới, chính sách tái sử dụng nước sẽ tiếp tục được quan tâm và Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) sẽ tiếp tục tham mưu cho Chính phủ và Quốc hội để ban hành chính sách tái sử dụng nước để giảm sức ép khai thác tài nguyên, theo đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước, (Bộ TN&MT) cho biết thêm.

Theo mục tiêu Chiến lược quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, có 65% người dân nông thôn sử dụng nước đạt quy chuẩn vào năm 2030 và 100% người dân nông thôn sử dụng nước đạt quy chuẩn vào năm 2045.

Tuy nhiên, nguồn nước nội sinh (sẵn có) hiện chỉ chiếm chưa đến 40%. Mặt khác, lượng mưa phân bố không đồng đều, nhiều khu vực lượng mưa hằng năm rất ít, khiến tình trạng thiếu nước, đặc biệt là nước sinh hoạt khu vực nông thôn ở nhiều nơi ngày càng gay gắt...

Mặc dù được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú và dồi dào song Việt Nam cũng là một trong những nơi hứng chịu nhiều thảm họa thiên tai lớn nhất ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương. Cùng với đó, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, mức độ rủi ro thiên tai ngày càng tăng đã khiến cho nguồn tài nguyên nước của nước ta đối mặt với nhiều thách thức lớn. Việc khai thác sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý và thiếu bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm tài nguyên nước trong khi hiệu quả sử dụng nước còn thấp. Trong việc quản lý sử dụng tài nguyên nước, việc điều chỉnh giá nước sạch với mục tiêu là đẩy mạnh công tác quản lý cấp nước, tiêu thụ nước sạch và chủ trương xã hội hóa công tác sản xuất, kinh doanh nước sạch; đồng thời khuyến khích ý thức sử dụng nước tiết kiệm trong các tổ chức, cá nhân đang sử dụng nước sạch và tạo tự chủ tài chính cho các doanh nghiệp cấp nước.

Với vị trí địa lý nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, Việt Nam được đánh giá là có nguồn tài nguyên nước khá phong phú cả về nguồn nước mặt trong các hệ thống sông, hồ, lượng mưa và nguồn nước dưới lòng đất. Theo số liệu từ Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Việt Nam có 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10km trở lên, trong đó có 697 sông, suối, kênh, rạch thuộc nguồn nước liên tỉnh; 173 sông suối, kênh, rạch thuộc nguồn nước liên quốc gia và 38 hồ, đầm phá liên tỉnh. Tổng lượng dòng chảy hàng năm đạt khoảng 844,4 tỷ m³; trong đó tập trung chủ yếu ở lưu vực sông Cửu Long. Tuy nhiên, lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm khoảng 310-315 tỷ m³/năm, chủ yếu thuộc các lưu vực sông Hồng - Thái Bình, sông Đồng Nai, sông Cả, sông Mã, sông Vũ Gia - Thu Bồn.

Ngoài hệ thống sông, để đáp ứng yêu cầu tích trữ, điều tiết dòng chảy phục vụ cấp nước, thủy điện, chống lũ lụt, Việt Nam còn có các hồ chứa nước. Theo Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường), cả nước có trên 2.900 hồ chứa thủy điện, thủy lợi đã vận hành, đang xây dựng hoặc đã có quy hoạch xây dựng với tổng dung tích trên 65 tỷ m³. Trong đó, khoảng 2.100 hồ đang vận hành (tổng dung tích hơn 34 tỷ m³) khoảng 240 hồ đang xây dựng (tổng dung tích hơn 28 tỷ m3), trên 510 hồ đã có quy hoạch (tổng dung tích gần 4 tỷ m3). Trong số các hồ nêu trên, có khoảng 800 hồ thủy điện, tổng dung tích trên 56 tỷ m³ (gồm 59 hồ đang vận hành, 231 hồ đang xây dựng và hơn 500 hồ đã có quy hoạch xây dựng) và hơn 2.100 hồ chứa thủy lợi, tổng dung tích hơn 9 tỷ m³, phần lớn là hồ chứa nhỏ, đã xây dựng xong, đang vận hành.

Việt Nam cũng có lợi thế bổ sung nguồn nước, khi nằm trong số các quốc gia có lượng mưa lớn trên thế giới với lượng mưa trung bình năm khoảng 1940-1960mm (tương đương tổng lượng nước khoảng 640 tỷ m³/ năm). Tuy nhiên, lượng mưa của Việt Nam phân bố rất không đều theo không gian và thời gian, tập trung chủ yếu trong 4-5 tháng mùa mưa (chiếm 75-85% tổng lượng mưa năm), lượng mưa trong mùa khô chỉ chiếm 15-25%. Phía Đông Trường Sơn thuộc vùng Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên và khu vực trung du, miền núi Bắc Bộ được ghi nhận là những khu vực có lượng mưa lớn trên cả nước. Nguồn nước dưới lòng đất của Việt Nam cũng có trữ lượng tiềm năng khá lớn, tập trung chủ yếu ở các khu vực đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên. Tổng trữ lượng nước dưới đất trên toàn lãnh thổ Việt Nam ước tính vào khoảng 91,5 tỷ m³/năm, trong đó, nước nhạt khoảng 69,1 tỷ m³/năm, còn nước mặn khoảng 22,4 tỷ m³/năm.

Với trữ lượng nước hiện nay, tổng lượng nước bình quân trên đầu người của Việt Nam vào khoảng 8.610 m³/người/năm, cao hơn so với tiêu chuẩn của khu vực và trên toàn cầu. Tuy nhiên, nếu chỉ xét nguồn nước nội sinh, Việt Nam đang là quốc gia thiếu nước do tổng lượng nước bình quân trên đầu người chỉ đạt 3.280 m³/ người/năm, thấp hơn so với trung bình của Đông Nam Á là 4.900 m³/ người/năm và mức bình quân toàn cầu là 4.000 m³/người/năm.

nuoc-sach-2.jpg
Cửa thu Nhà máy nước Cầu Đỏ (Đà Nẵng) có những ngày độ mặn xấp xỉ 1.000 mg/lít

Nguồn nước đang bị cạn kiệt về mức độ và quy mô

Điều đáng lo ngại là nguồn nước của Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề về ô nhiễm, khan hiếm, cạn kiệt cả về mức độ và quy mô, nhất là tại các vùng đô thị, khu công nghiệp, đe dọa trực tiếp đến an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững của quốc gia. Các nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm nguồn nước tại Việt Nam có thể kể đến sự gia tăng dân số kéo theo lượng rác thải gia tăng với khối lượng lớn phục vụ sản xuất và tiêu dùng gây ô nhiễm nguồn nước như: Rác thải sinh hoạt, rác thải y tế. Ô nhiễm do các điều kiện tự nhiên, do quá trình sản xuất công nghiệp phát thải, sản xuất nông nghiệp (thuốc bảo vệ thực vật) và do quá trình đô thị hóa.

Theo nhiều chuyên gia, nguồn nước ở nông thôn Việt Nam đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng, ngoài sự tác động của nguồn nước thải từ các nhà máy ở lưu vực các con sông, còn có nguồn gây ô nhiễm từ hơn 10 triệu tấn phân bón dùng cho ngành nông nghiệp. Đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng phân bón bị rửa trôi mang theo dư lượng thuốc khá cao. Bên cạnh đó, nghề chăn nuôi cũng góp phần không nhỏ vào hệ lụy này, mỗi năm Việt Nam có khoảng 84,5 triệu tấn chất thải được thải vào môi trường, trong đó có đến 80% không qua xử lý. Không chỉ ô nhiễm nước mặt, các nguồn nước ngầm của Việt nam cũng bị ô nhiễm nặng. Tại một số vùng nông thôn, nguồn nước ngầm bị nhiễm vi sinh đã vượt ngưỡng cho phép. Theo báo cáo tại một số địa phương như Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định… nước ngầm đã có dấu hiệu ô nhiễm chất hữu cơ (N03-, NH4+), kim loại nặng (Fe, As) và đặc biệt ô nhiễm vi sinh (Coliform, E.Coli). Đây là mối đe dọa không chỉ đến hoạt động sản xuất mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe người dân. Bởi khu vực này, người dân không chỉ sử dụng nước ngầm cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn sử dụng nước ngầm trong sinh hoạt hàng ngày. Những thiệt hại về môi trường còn kéo theo thiệt hại về kinh tế, GDP ngành nông nghiệp được dự đoán bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với mức sụt giảm khoảng 3,5% vào năm 2035. Đây chỉ là ước tính rất thận trọng của các nhà khoa học vì chỉ mới xét cho những tỉnh bị ô nhiễm nhất ở khu vực hạ lưu, còn trên thực tế cả nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, ước tính rơi vào khoảng 6% GDP vào năm 2035.

Ngoài ra, nguồn nước ngoại lai chiếm trên 60% tổng tài nguyên nước mặt, đặc biệt là ở 2 lưu vực sông lớn nhất Việt Nam là sông Cửu Long và sông Hồng, nguồn nước ngoại lai chiếm lần lượt 90% và 50% tổng khối lượng nước bề mặt. Trước khi chảy vào Việt Nam cung cấp nước cho sông Cửu Long, sông Mê Kông đã chảy qua 6 quốc gia là: Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia. Trong khi đó, theo phân bố dòng chảy lưu vực của Ủy hội sông Mê Kông (MRC), Việt Nam chỉ chiếm 9% diện tích lưu vực và 11% tỷ lệ dòng chảy đóng góp, trong khi các đập tại Trung Quốc đang trữ tới 56% lượng nước, sau đó là Lào với 32,7% lượng nước và dự kiến sẽ còn tăng thêm khi các nước thượng nguồn đang tiếp tục xây dựng các nhà máy thủy điện. Nằm ở hạ lưu sông Mê Kông, Việt Nam không thể chủ động trong việc bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn nước này, nhất là khi các quốc gia thượng nguồn ngày càng khai thác triệt để nguồn nước để sản xuất điện. Khi các đập thủy điện ở thượng nguồn làm cho dòng chảy yếu đi thì không đủ sức vận chuyển phù sa và cát về Đồng bằng sông Cửu Long nữa, đồng nghĩa với việc sạt lở ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ khó có thể khắc phục được. Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu làm nước biển dâng, xâm nhập mặn rừng đầu nguồn bị suy giảm cũng gây ra những tác động không hề nhỏ tới nguồn nước.

Hiện ở Việt Nam có 108 lưu vực sông. Tổng lượng nước mặt trung bình khoảng từ 830 tỷ m³ đến 840 tỷ m³, trong đó có hơn 60% lượng nước được bắt nguồn từ nước ngoài, chỉ có khoảng 310-320 tỷ m³ được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Nguồn nước mặt ở Việt Nam phân bổ không đều, không chỉ về mặt không gian mà thay đổi theo thời gian cả năm.

Ở miền Bắc, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 11, ở miền Trung và miền Nam, mùa khô bắt đầu muộn hơn, thường vào tháng 1. Mùa khô thường kéo dài từ 6 đến 9 tháng, các lưu vực sông ở miền Trung có mùa khô dài nhất. Lưu lượng tự nhiên trong mùa khô chiếm 20-30% tổng lưu lượng năm.

Hiện cả nước có hơn 770 đô thị, trong đó có hai đô thị đặc biệt; 15 đô thị loại một; 14 đô thị loại hai; 53 đô thị loại ba; 65 đô thị loại bốn, còn lại là đô thị loại năm. Tuy vậy, tỷ lệ dân đô thị hưởng dịch vụ thoát nước chỉ chiếm khoảng 60% và tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý mới đạt khoảng 12%.

nuoc-sach-3.jpg
Nguồn nước nông thôn bị ô nhiễm từ hoạt động sản xuất nông nghiệp

Tình hình ô nhiễm nước

Điển hình như tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, phần lớn nước thải sinh hoạt đa ô nhiễm không được xử lý, đổ thẳng vào các ao, hồ, sau đó chảy ra các con sông lớn tại vùng châu thổ sông Hồng và sông Đồng Nai – Sài Gòn.

Cùng với sự đô thị hóa nhanh và phát triển công nghiệp, các vấn đề môi trường như rác thải, nhất là tình trạng ô nhiễm nước ngày càng trở nên trầm trọng, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân.

Theo Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, nước thải chiếm khoảng 80% tổng số nước thải tại các thành phố nhưng chỉ có khoảng 6% được xử lý. Ông Yutaka Matsuzawa, chuyên gia môi trường của tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) Việt Nam, cũng khẳng định rằng nguồn nước thải là hiểm họa môi trường hàng đầu tại Việt Nam.

Mỗi năm Việt Nam sử dụng khoảng 80,6 tỷ m³ nước, gần 82% tổng lượng nước mặt trên toàn quốc được sử dụng cho tưới, 11% cho nuôi trồng thủy sản, 5% cho công nghiệp, 3% cho nông nghiệp và 3% cho đô thị. Do khai thác nước không hợp lý, không theo quy hoạch nên nguồn nước đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng.

Nước sông ô nhiễm

Hầu hết các sông chính ở Việt Nam đều đã và đang bị đa ô nhiễm với các mức độ khác nhau, trong đó ô nhiễm chủ yếu các vùng trung và hạ lưu, khu vực tập trung đông dân cư và các khu công nghiệp, hiện tượng ô nhiễm diễn ra nghiêm trọng hơn. Đặc biệt, mức độ ô nhiễm tăng cao vào mùa khô, khi lượng nước chảy vào các con sông giảm.

Nước thải chưa qua xử lý

Tại các khu công nghiệp hàng trăm đơn vị sản xuất lớn nhỏ, hàng tấn nước thải rác thải chưa qua xử lý đã xả trực tiếp vào đường ống, các chất ô nhiễm hữu cơ, các kim loại còn nguyên trong nước đã thâm nhập vào nguồn nước.

Ngoài ra, nhiều nhà máy và cơ sở sản xuất, các lò mổ cũng không được trang bị hệ thống xử lý nước thải. Ngay cả các bệnh viện, hiện thải khoảng 7.000 m³/ngày, thì chỉ có 30% trong số này là được xử lý.

Hệ thống quan trắc giám sát tài nguyên nước có mật độ thưa và thiếu. Về hệ thống quan trắc giám sát tài nguyên nước ở Trung ương các trạm chủ yếu nằm trên sông chính và nhánh lớn; các trạm đầu nguồn, các nhánh trung bình và nhỏ đang thiếu, đặc biệt là trong vùng có khả năng xảy ra lũ lớn, lũ quét. Ở một số khu vực công trình quan trắc còn thưa, riêng 2 vùng Tây Bắc và Đông Bắc Bộ chưa có công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất nào thuộc mạng quan trắc quốc gia. Ở địa phương, hệ thống quan trắc còn thưa, chưa đáp ứng được việc giám sát tài nguyên nước một cách tổng quan cho toàn vùng, toàn lưu vực, mà chỉ mang tính dạng điểm, cục bộ cho một khoảnh diện tích, tầng chứa nước khu vực nhất định. Việc giám sát, đưa ra cảnh báo, dự báo đối với mức độ hạ thấp mực nước, nhất là xâm nhập mặn còn rất hạn chế, dẫn đến việc giám sát và cảnh báo gặp nhiều khó khăn.

nuoc-sach-4.jpg
Công suất của những công nghệ xử lý nước thải hiện tại không đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tỷ lệ nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường rất lớn

Khu vực nông thôn

Ở nông thôn do điều kiện sinh hoạt còn khó khăn, cơ sở lạc hậu, các chất thải sinh hoạt và cả gia súc, gia cầm chưa qua xử lý đã thấm xuống các mạch nước ngầm, nếu sử dụng nước ngầm không xử lý sẽ có khả năng mắc các bệnh do nước gây ra. Bên cạnh đó, việc lạm dụng phân bón và các chất bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp dẫn đến các kênh mương, sông hồ bị ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Ngoài ô nhiễm nguồn nước mặt, thì nguồn nước dưới đất cũng đang phải đối mặt với những vấn đề như nhiễm mặn, nhiễm thuốc trừ sâu, các chất có hại khác.

Nước nhiễm mặn khu vực ĐBSCL

Trong thời gian qua, dưới tác động của biến đổi khí hậu, thực trạng nhiễm mặn trong các nguồn nước sinh hoạt ngày càng cao. Trong những năm gần đây tại Đồng bằng sông Cửu Long nước mặn xâm nhập sớm và lâu hơn, lấn sâu vào nội đồng theo hệ thống sông, kênh rạch với những diễn biến phức tạp.

Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, nguồn nước mùa khô 2019-2020 sẽ ít, nguy cơ mặn xuất hiện sớm và hạn hán có thể xảy ra. Mặn mùa khô 2019-2020 xuất hiện sớm so với năm 2018-2019 khoảng 10-30 ngày, và sớm hơn so với trung bình nhiều năm khoảng 1-2 tháng (tùy vào từng vùng).

Từ tháng 12/2019, mặn có khả năng ảnh hưởng các cống lấy nước phạm vi cách biển đến 30-35km. Tháng 1-2/2020, ranh mặn 4g/l lấn sâu vào nội địa 45-55km (mức độ lấn sâu tùy vào từng cửa sông.

Một số vùng ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn trong thời gian tới như các huyện: Gò Công Đông, Gò Công Tây, Tân Phú Đông của tỉnh Tiền Giang; huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Thạnh Phú của Bến Tre; Trà Cú, Châu Thành, Cầu Ngang của Trà Vinh; Long Phú, Trần Đề của Sóc Trăng; Vĩnh Lợi, Phước Long của Bạc Liêu,…

Vân Khánh