Việt Nam đặt mục tiêu có hệ thống khu bảo tồn rộng 6,7 triệu ha vào năm 2030
Tài nguyên và phát triển - Ngày đăng : 09:00, 14/07/2024
Theo đó, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 611/QĐ-TTg, phê duyệt Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với nhiều điểm nổi bật.
Trong đó, quy hoạch đặt ra mục tiêu quan trọng đến năm 2030 là tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên. Các nỗ lực sẽ được tập trung vào việc bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, nhằm nâng cao chất lượng đa dạng sinh học trên toàn quốc. Mục tiêu cụ thể là tổng diện tích của hệ thống khu bảo tồn trên phạm vi toàn quốc sẽ đạt khoảng 6,7 triệu ha. Điều này không chỉ góp phần bảo vệ các loài sinh vật quý hiếm và môi trường sống của chúng, mà còn đảm bảo rằng các thế hệ tương lai sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ một môi trường sống phong phú và bền vững.
Để đạt được mục tiêu này, quy hoạch đề ra nhiệm vụ từ nay đến năm 2030 bao gồm việc thành lập mới, củng cố và mở rộng các khu bảo tồn thiên nhiên, hành lang đa dạng sinh học, cảnh quan quan trọng và vùng đất ngập nước. Hệ thống di sản thiên nhiên và các cơ sở bảo tồn cũng sẽ được quản lý hiệu quả hơn.
Quy hoạch cũng sẽ xây dựng các cơ chế và chính sách nhằm khuyến khích sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức vào việc thành lập, quản lý và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu vực bảo tồn đa dạng sinh học tự nguyện. Điều này sẽ giúp tăng cường xã hội hóa trong lĩnh vực bảo tồn, đảm bảo việc bảo vệ và phát triển bền vững các hệ sinh thái quan trọng.
Cùng với đó, việc điều tra, đánh giá và xác định các khu vực có đa dạng sinh học cao, cảnh quan thiên nhiên quan trọng và vùng đất ngập nước sẽ được tiến hành. Các biện pháp bảo tồn hiệu quả sẽ được hướng dẫn thực hiện tại những khu vực này.
Quy hoạch cũng sẽ xây dựng các quy định và hướng dẫn về bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên, bồi hoàn đa dạng sinh học và chính sách đầu tư cho các di sản thiên nhiên và khu bảo tồn thiên nhiên.
Các hoạt động đánh giá và lượng giá giá trị đa dạng sinh học sẽ được tiến hành, đồng thời tiếp tục triển khai cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên. Việc mở rộng chi trả dịch vụ hệ sinh thái sẽ bao gồm các khu vực như rừng ngập mặn, đất ngập nước, núi đá, hang động và công viên địa chất.
Đồng thời, sẽ có các chương trình và kế hoạch phục hồi và sử dụng bền vững các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị suy thoái. Các mô hình bảo tồn đa dạng sinh học, không gian xanh và các hệ sinh thái tự nhiên trong đô thị cũng sẽ được phát triển.
Trong tương lai, đến năm 2050, Quy hoạch sẽ tiếp tục và mở rộng việc thành lập các vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài và sinh cảnh, khu bảo vệ cảnh quan, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, hành lang đa dạng sinh học, các khu vực đa dạng sinh học cao, cảnh quan thiên nhiên quan trọng và vùng đất ngập nước.
Các nhiệm vụ này nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là quản lý hiệu quả và phát triển bền vững hệ thống rừng, đồng thời nâng cao năng lực hấp thu và lưu trữ các-bon, hướng tới mục tiêu trung hòa phát thải ròng của Việt Nam về mức “0” vào năm 2050 và tham gia vào thị trường các-bon.
Điều này không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn đóng góp quan trọng vào cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, đảm bảo một tương lai bền vững cho các thế hệ mai sau.