Thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam Bài 1: Tiềm năng và lợi thế
Emagazines - Ngày đăng : 18:52, 23/09/2024
Thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam Bài 1: Tiềm năng và lợi thế
Việt Nam được coi là nước có tiềm năng lớn về nguồn cung ứng tín chỉ carbon, nếu thực hiện được các giao dịch tương xứng, nước ta có thể bán tín chỉ carbon với giá trị khoảng 300 triệu USD/năm… Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon sẽ giúp Việt Nam xanh hoá nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp.
Một số nét tổng quan về thị trường tín chỉ carbon
Thị trường tín chỉ carbon là thị trường trong đó hàng hóa giao dịch được quy đổi ra đơn vị carbon, cụ thể có 2 loại hàng hóa được giao dịch trên thị trường carbon là hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon.
Hạn ngạch phát thải là khối lượng khí nhà kính, quy về đơn vị tấn CO2 tương đương mà cơ quan quản lý cho phép một cơ sở/đối tượng/tổ chức được phép phát thải trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu cơ sở đó phát thải quá hạn ngạch được quy định thì sẽ phải mua hạn ngạch của cơ sở khác hoặc tín chỉ các-bon trên thị trường để bù trừ phần vượt quá, hoặc sẽ bị phạt bởi cơ quan quản lý nhà nước.
Tín chỉ carbon là đại diện cho lượng tấn CO2 tương đương mà một hoạt động có thể tạo ra, dựa trên khả năng hấp thụ hoặc loại bỏ khí nhà kính của hoạt động đó (ví dụ: hoạt động trồng rừng, thu hồi khí để phát điện) hoặc dựa trên khả năng giảm phát thải của hoạt động đó so với các hoạt động thông thường khác (ví dụ: năng lượng tái tạo giúp giảm phát thải so với năng lượng hóa thạch, tiết kiệm năng lượng giúp giảm phát thải so với thực hành không tiết kiệm, v.v)
Thị trường carbon vận hành dựa trên cung và cầu đối với hai loại hàng hóa kể trên, được phân thành 2 loại:
Thị trường bắt buộc: là thị trường mà trong đó các cơ sở bắt buộc phải thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, thể hiện ở lượng hạn ngạch phát thải mà cơ quan quản lý phân bổ cho mỗi cơ sở. Các cơ sở được phép mua bán trao đổi lượng hạn ngạch này trên thị trường. Ví dụ: cơ sở phát thải ít sẽ dư hạn ngạch để bán cho các cơ sở phát thải nhiều bị thiếu hạn ngạch. Tổng phát thải của thị trường sẽ không đổi. Do đó, mục đích chính của thị trường bắt buộc là để kiểm soát phát thải. Hàng hóa chính được giao dịch là hạn ngạch phát thải (nên thị trường carbon bắt buộc được đặc trưng bởi cơ chế giao dịch hạn ngạch phát thải), có thể cho phép sử dụng một lượng nhỏ tín chỉ các-bon (thường 5-10%).
Thị trường tự nguyện: là thị trường mà trong đó các doanh nghiệp tự nguyện thực hiện giảm phát thải khí nhà kính và mua tín chỉ carbon để đạt được mục tiêu này. Ví dụ, doanh nghiệp cam kết thực hiện net-zero, tuy nhiên do nhu cầu sản xuất kinh doanh họ vẫn phải dùng một lượng nhiên liệu hóa thạch nhất định, họ sẽ mua tín chỉ các-bon trên thị trường để bù trừ cho phát thải từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch này. Như vậy, hàng hóa được giao dịch trên thị trường tự nguyện là tín chỉ carbon.
Đặc biệt, thị trường carbon quốc tế bắt đầu hình thành theo các cơ chế của Nghị định thư Kyoto có hiệu lực từ năm 2005 trong đó các nước đã phát triển như Nhật Bản, Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, v.v phải cam kết giảm phát thải và họ có thể sử dụng các công cụ linh hoạt để thực hiện cam kết này, bao gồm 3 cơ chế: cơ chế giao dịch phát thải quốc tế (international emission trading), cơ chế đồng thực hiện (joint implementation) và cơ chế phát triển sạch (clean development mechanism).
Để đạt được mục tiêu này, các nước, như Châu Âu đã hình thành cơ chế giao dịch phát thải trong nước, hay thị trường các-bon của mình. Hiện nay trên thế giới có khoảng 47 thị trường như vậy. Việt Nam cũng dự kiến thực hiện thí điểm thị trường carbon trong nước từ năm 2025 và vận hành chính thức từ năm 2028.
Thị trường carbon lớn trên thế giới hiện nay có EU, Anh, Hàn Quốc, Bắc Mỹ, Canada và New Zealand.
Có thể thấy, việc hình thành thị trường tín chỉ carbon là thể hiện cam kết giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng 0 (Net Zero), là bước cụ thể hóa cho những chính sách về giảm phát thải khí nhà kính, phân bổ hạn ngạch phát thải, trao đổi tín chỉ carbon, tạo nguồn lực tài chính xanh… Thông qua thị trường carbon, các công ty hoặc cá nhân có thể bù đắp lượng phát thải khí nhà kính bằng cách mua thêm hạn ngạch phát thải hoặc tín chỉ carbon từ các đơn vị loại bỏ hoặc giảm phát thải khí nhà kính.
Tiềm năng thị trường carbon của Việt Nam
Với sự bùng nổ về nhu cầu tín chỉ carbon sau COP26, Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển thị trường carbon. Việt Nam có thể tạo ra các khoản tín dụng carbon chất lượng cao và bán chúng trong khu vực và toàn cầu.
Theo thống kê, diện tích rừng hiện nay của nước ta là 14,79 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng ở mức hơn 42%. Về tiềm năng của thị trường tín chỉ carbon, Cục Lâm nghiệp tính toán, trên diện tích rừng hiện nay, nước ta có thể bán khoảng 40 triệu tín chỉ carbon mỗi năm. Với đơn giá 5 USD/tín chỉ, ngành Lâm nghiệp ước thu về 200 triệu USD, tương đương gần 5.000 tỷ đồng.
Đánh giá về tiềm năng tín chỉ carbon (CO2) của Việt Nam, ông Tăng Thế Cường - Cục trưởng Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết: Ở nước ta, việc trao đổi tín chỉ carbon ra thế giới đã được doanh nghiệp thực hiện từ những năm 2000 khi triển khai các chương trình, dự án theo Cơ chế phát triển sạch (CDM). Đến nay, đã có hơn 300 chương trình đăng ký, trong đó có khoảng 150 chương trình, dự án được cấp 40,2 triệu tín chỉ và trao đổi trên thị trường carbon thế giới, đưa Việt Nam là một trong 4 nước có dự án CDM đăng ký nhiều nhất, sau Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ.
Riêng tín chỉ thu được từ các chương trình, dự án theo cơ chế CDM, Việt Nam đứng thứ 9 trên tổng số 80 quốc gia có dự án CDM được cấp tín chỉ. Các dự án đã được cấp tín chỉ tập trung vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo, sử dụng tiết kiệm năng lượng, ông Cường cho biết thêm
Ngoài nguồn tài nguyên rừng phong phú, Việt Nam còn có khả năng bán tín chỉ carbon từ lúa, hay các cây công nghiệp dài ngày như cao su, điều, cà phê, dừa,... nếu được xác lập theo tiêu chí của đối tác.
Tiềm năng lớn từ rừng
Năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone. Theo đó, từ nay đến hết năm 2027, Việt Nam sẽ xây dựng các hệ thống quy định, chính sách tạo nền tảng cho thị trường vận hành cũng như thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon; hướng đến chính thức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon từ năm 2028. Trong đó, thị trường carbon rừng của Việt Nam có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích lớn, không chỉ cho mục tiêu giảm phát thải mà còn góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho hơn 25 triệu người dân có sinh kế phụ thuộc vào rừng.
Với tổng diện tích rừng khoảng 14,7 triệu ha, độ che phủ rừng 42%, ước tính mỗi năm rừng Việt Nam hấp thụ trung bình gần 70 triệu tấn carbon (CO2). Thông qua thị trường carbon, rừng có thể mang lại một nguồn thu đáng kể phục vụ công tác quản lý, bảo vệ cũng như nâng cao thu nhập cho các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng.
Tháng 10/2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) - bên nhận ủy thác của Quỹ Đối tác carbon trong lâm nghiệp (FCPF) đã ký kết thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA). Theo đó, Việt Nam chuyển nhượng cho FCPF 10,3 triệu tấn CO2 giảm phát thải từ rừng tại 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024. FCPF sẽ thanh toán cho dịch vụ này 51,5 triệu USD. Việt Nam cũng là quốc gia đầu tiên ở Châu Á - Thái Bình Dương và là quốc gia thứ 5 trên thế giới đạt được thỏa thuận quan trọng này với FCPF.
Hiện Chính phủ Việt Nam cũng đang đàm phán với Liên minh giảm phát thải (LEAF), dự kiến trong tương lai sẽ huy động được nguồn tài chính từ Liên minh này thông qua hoạt động bảo vệ rừng ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Và trong tháng 3/2024 vừa qua, Ngân hàng Thế giới (WB) vừa chuyển khoản tiền trị giá 51,5 triệu USD, tương đương 1.200 tỉ đồng cho Việt Nam sau khi mua 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng. Nước ta cũng là quốc gia đầu tiên ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương nhận được khoản tiền bán tín chỉ carbon rừng từ WB. Dự kiến con số này sẽ tăng lên đáng kể ở các năm sau đó do diện tích rừng đưa vào khai thác carbon tăng và giá trị mỗi tín chỉ sẽ tăng lên.
Tín chỉ carbon từ canh tác lúa
Bên cạnh rừng, ngành nông nghiệp Việt Nam cũng có tiềm năng có thể đạt 57 triệu tín chỉ carbon mỗi năm. Đặc biệt là trong canh tác lúa. Gần đây, một số địa phương đã tiến tới áp dụng mô hình canh tác lúa giảm phát thải. Mô hình này không chỉ giúp tăng năng suất, giảm chi phí mà còn tạo ra thêm tín chỉ carbon. Điển hình như Đề án 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong quá trình triển khai Đề án, sẽ có một số chính sách mới, phù hợp với xu hướng toàn cầu được thực hiện thí điểm như chi trả tín chỉ carbon dựa vào kết quả cho 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh, sản xuất tuần hoàn. Hiện Bộ này đang phối hợp với các chuyên gia của Quỹ chuyển đổi tài sản carbon xây dựng hệ thống MRV cho Đề án này để làm cơ sở cấp tín chỉ carbon cho sản xuất lúa gạo và trao đổi trên thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho người sản xuất lúa gạo đồng thời giảm phát thải.
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường cho biết: “Hiện nay lúa chúng ta đang phát thải 90% qua rễ, 9% qua thân và 1% qua lá. Chính vì vậy khi chúng ta áp dụng các phương pháp canh tác mới là canh tác ngập khô, ướt khô sẽ giúp chúng ta giảm được phát thải metan đối với lúa và có thể tạo ra được tín chỉ carbon”.
Thống kê của Trung tâm con người và thiên nhiên (2023) cho thấy, tính đến hết tháng 11/2022 đã có gần 29,4 triệu tín chỉ carbon được phát hành, thuộc 276 dự án nằm trong khuôn khổ của cơ chế phát triển sạch (CDM) thuộc thị trường carbon bắt buộc, trong đó chủ yếu (204 dự án) là các dự án thủy điện. Thị trường carbon tự nguyện cũng được hình thành, với 32 dự án và có tổng số 5,75 triệu tín chỉ carbon được phát hành sử dụng tiêu chuẩn vàng (Gold Standards). Các dự án thủy điện vẫn chiếm nhiều nhất (22/32 dự án). Ngoài ra, thị trường tự nguyện cũng có 27 dự án sử dụng tiêu chuẩn VCS (verified carbon standards) với tổng số 1,35 triệu tín chỉ carbon đã được phát hành. Tương tự, các dự án mảng thủy điện vẫn chiếm số lượng lớn nhất (16 dự án).
Theo tính toán, nếu thực hiện được các giao dịch tương xứng, nước ta có thể bán tín chỉ carbon với giá trị khoảng 300 triệu USD/năm.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, trong thời gian tới nhiều nước phát triển sẽ hỗ trợ Việt Nam khai thác tín chỉ carbon liên quan đến biển xanh, đất ngập nước, liên quan tới việc cô lập và tách carbon trên biển. Chính vì vậy, các khu vực giàu đa dạng sinh học, có khả năng hấp thụ carbon như Cần Giờ (TP HCM) sẽ là cơ hội để chúng ta có thể thực hiện việc bán tín chỉ carbon.
Từ thành công nêu trên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, Việt Nam là một trong những quốc gia giàu tiềm năng về rừng, với hơn 14,7 triệu ha, đạt tỷ lệ che phủ trên 42%. Việc chuyển nhượng tín chỉ carbon của Việt Nam được WB đánh giá rất cao.