Hưng Yên triển khai nhiều giải pháp phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học
Bảo vệ môi trường - Ngày đăng : 16:30, 28/10/2024
Hưng Yên triển khai nhiều giải pháp phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học
Tỉnh Hưng Yên đang đẩy mạnh các phương pháp chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học giúp nâng cao giá trị sản phẩm và đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhằm thúc đẩy chăn nuôi bền vững.
Ở thời điểm hiện tại, tỉnh Hưng Yên đã lựa chọn được 90 tổ chức, cá nhân tham gia các đề án về chuỗi chăn nuôi. Trong đó, chuỗi chăn nuôi và chế biến thịt có 15 đơn vị tham gia, bao gồm: 10 đơn vị chăn nuôi, chế biến các sản phẩm từ thịt lợn, 4 đơn vị chăn nuôi gia cầm và 1 đơn vị chăn nuôi bò.
Đối với chuỗi chăn nuôi, quy trình chăn nuôi và giết mổ, chế biến sản phẩm được thực hiện khép kín, bảo đảm vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, tạo chuyển biến tích cực, giúp người dân phát triển sản xuất bền vững.
Toàn tỉnh Hưng Yên hiện có hơn 500.000 con lợn, gần 30.000 con bò và khoảng 8,6 triệu con gia cầm... Chất lượng con giống ngày càng được nâng lên với 100% là lợn nạc và siêu nạc, 100% đàn bò được sinh hóa, đàn gà lông màu chiếm trên 90% tổng đàn.
Hình thức và quy mô chăn nuôi chuyển dần theo hướng giảm chăn nuôi quy mô nông hộ, tăng chăn nuôi quy mô trang trại đảm bảo an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và bảo vệ môi trường.
Trước đó, ngày 12/11/2020, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành Quyết định số 2631/QĐ-UBND về việc tiếp tục thực hiện Đề án xây dựng và khuyến khích phát triển mô hình chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản bảo đảm an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2021-2025, với tổng kinh phí là trên 73 tỷ đồng. Đề án nhằm mục tiêu hình thành các chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, có năng lực cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, định hướng sản xuất xuất khẩu.
Theo Đề án, các đơn vị được tham gia mô hình chuỗi thực phẩm thịt, sản phẩm thực phẩm từ động vật khi đáp ứng điều kiện: Quy mô từ 200 con thương phẩm/cơ sở trở lên (đối với lợn thịt), từ 2.500 con/năm (đối với gia cầm), từ 25 con trở lên (đối với bò thịt, bò sữa).
Trưởng phòng Chăn nuôi (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hưng Yên) - Bà Nguyễn Thị Bích Vân thông tin, từ năm 2023 đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức tư vấn, hướng dẫn, chứng nhận duy trì mở rộng VietGAP, VietGAP cho gần 80 tổ chức, cá nhân với tổng diện tích trên 750 ha, trên 83.000 con gia súc, gia cầm. Nhằm hiện thực hóa đề án, hàng năm, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương rà soát, lựa chọn đối tượng tham gia đề án; tổ chức tập huấn quy trình sản xuất VietGAP trong chăn nuôi; hỗ trợ hệ thống điện, xử lý chất thải cho các đối tượng tham gia.
Cũng theo bà Vân, chăn nuôi chuyển dần theo hướng giảm chăn nuôi quy mô nông hộ, tăng chăn nuôi quy mô trang trại đảm bảo an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và bảo vệ môi trường đã góp phần hình thành chuỗi liên kết chăn nuôi, tiêu thụ sản phẩm. Từ đó, khắc phục tình trạng phụ thuộc vào thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.
Theo chia sẻ của ông Lê Trung Cần, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hưng Yên, nhằm khuyến khích các địa phương phát triển chăn nuôi an toàn sinh học, thời gian tới, Sở tham mưu UBND tỉnh tiếp tục có cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, vốn tín dụng, tạo điều kiện cho các hộ chăn nuôi xây dựng trang trại theo hướng khép kín. Đồng thời, chỉ đạo đơn vị chuyên môn đẩy mạnh việc xây dựng chuỗi liên kết, gắn các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm với hộ chăn nuôi quy mô lớn, tạo quy trình đồng bộ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm để xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm chăn nuôi.
Hiện tại, Sở này cũng đang phối hợp với các địa phương rà soát thực trạng chăn nuôi để xây dựng đề án chăn nuôi xa khu dân cư gắn với giết mổ tập trung để bảo đảm quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, góp phần đưa ngành chăn nuôi của tỉnh phát triển bền vững.
Ngành chăn nuôi tỉnh Hưng Yên đang từng bước đẩy mạnh chuyển dịch từ chăn nuôi quy mô nhỏ sang tập trung, quy mô lớn đảm bảo an toàn sinh học. Điều này, không chỉ giúp người chăn nuôi kiểm soát dịch bệnh, giảm rủi ro và chi phí sản xuất mà còn góp phần hình thành các chuỗi liên kết, nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển chăn nuôi bền vững.