Tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam Bài 1: Những lợi thế phát triển
Emagazines - Ngày đăng : 15:20, 30/10/2024
Tín chỉ carbon rừng tại Việt NamBài 1: Những lợi thế phát triển
Việt Nam có lợi thế rất lớn với trữ lượng rừng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến lược cắt giảm phát thải khí nhà kính, hiện thực hóa cam kết Net-Zero, thông qua việc xây dựng các dự án tín chỉ carbon. Cùng với việc bảo vệ và phát triển rừng bền vững, Việt Nam đang dần hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm đáp ứng các điều kiện để kinh doanh tín chỉ carbon rừng.
Biến đổi khí hậu ngày càng nhận được sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Tại Hội nghị thượng đỉnh về BĐKH năm 2021 (COP 26), hơn 70 quốc gia (chiếm 76% lượng phát thải toàn cầu) đặt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net-Zero). Trong số các lĩnh vực thì sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (Land Use, Land Use Change and Forestry – LULUCF) đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa cam kết Net-Zero thông qua các hoạt động giảm phát thải và hấp thụ carbon từ đất nông nghiệp, đất ngập nước và rừng. Nhiều quốc gia coi LULUCF là lĩnh vực trọng tâm trong tương lai để đạt được các cam kết về khí hậu, nhất là các quốc gia có lợi thế về rừng, trong đó có Việt Nam.
Với việc ký kết hàng loạt các thỏa thuận quốc tế về BĐKH như cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050, cam kết giảm phát thải metan toàn cầu vào năm 2030, ký Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất,… Việt Nam đang tích cực hoàn thiện khung chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các dự án tín chỉ carbon trong lĩnh vực rừng. Việc đa dạng hóa nguồn tài chính bền vững cho ngành lâm nghiệp từ nguồn tín chỉ carbon từ các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng được xem là một trong những giải pháp ưu tiên trong chính sách ứng phó biến đổi khí hậu.
Tín chỉ carbon rừng là gì?
Tín chỉ carbon rừng là giấy phép để các cơ sở sản xuất kinh doanh phát thải khí CO2. Chủ rừng có thể quy đổi diện tích rừng đang quản lý, bảo vệ ra lượng hấp thụ khí CO2, ra tín chỉ carbon rừng và có thể bán tín chỉ carbon rừng tại thị trường carbon qua cơ chế giảm phát thải khí nhà kính.
Để tham gia thị trường carbon, carbon rừng phải được tính toán dưới dạng tín chỉ carbon. Mỗi tín chỉ carbon rừng phải được xác nhận (verification) từ giảm phát thải hoặc tăng hấp thụ 1 tấn khí CO2 hoặc 1 tấn CO2 tương đương (CO2 e) được tạo ra từ các hoạt động chống mất rừng và suy thoái rừng; quản lý rừng bền vững; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon rừng; bảo vệ rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng và trồng rừng.
Một số tiêu chuẩn phổ biến có thể áp dụng để xác nhận tín chỉ carbon rừng bao gồm:
Tiêu chuẩn carbon được xác nhận (VCS) của VERRA6 – dùng để xây dựng dự án hay xác nhận các tín chỉ carbon rừng được hình thành từ trồng rừng mới, trồng lại rừng gỗ lớn, trồng rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, phục hồi rừng tự nhiên; giảm phát thải từ chống mất rừng và suy thoái rừng; phục hồi và bảo tồn đất ngập nước.
Tiêu chuẩn ART/TREES (The REDD+ Envirromental Excellence Standards) – dùng để xây dựng dự án hay xác nhận các tín chỉ carbon rừng hình thành từ chống mất rừng, chống suy thoái rừng và trồng rừng trên đất không có rừng trước đó ít nhất 5 năm hoặc khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng trên đất trống, rừng nghèo kiệt.
Tiêu chuẩn vàng (Gold Standard – GS) – dùng để xây dựng dự án hay xác nhận tín chỉ carbon rừng hình thành từ trồng rừng mới trên đất chưa có rừng và trồng rừng lại chu kỳ dài.
Tiêu chuẩn PLAN VIVO – dùng để xây dựng các dự án và xác nhận tín chỉ carbon rừng hình thành từ giảm phát thải do chống mất rừng, suy thoái rừng; hấp thụ và lưu giữ carbon rừng từ phục hồi rừng và hệ sinh thái; hấp thụ carbon rừng từ quản lý rừng bền vững.
Tiêu chuẩn khí hậu, cộng đồng và đa dạng sinh học (CCB) – dùng để xây dựng và cấp tín chỉ carbon rừng được hình thành từ giảm phát thải do chống mất rừng, suy thoái rừng; hấp thụ và lưu giữ carbon rừng từ trồng rừng, phục hồi rừng, nông lâm kết hợp.
Lợi thế phát triển tín chỉ carbon rừng tại Việt Nam
Tính đến năm 2022, Việt Nam có trên 14,7 triệu ha rừng với tỷ lệ che phủ 42,02%, trong đó rừng tự nhiên chiếm hơn 10 triệu ha (chiếm đến 70%), rừng trồng hơn 4,5 triệu ha; nếu phân theo mục đích sử dụng thì rừng đặc dụng chiếm hơn 2,1 triệu ha, trong đó 94.940 ha là rừng trồng; rừng phòng hộ hơn 4,6 triệu ha, trong đó 626.124 ha là rừng trồng; rừng sản xuất trên 7,8 triệu ha, trong đó hơn 3,8 triệu ha là rừng trồng (Bộ NN&PTNT, 2022). Đây là tiềm năng để thực hiện các hoạt động tăng cường trữ lượng carbon rừng theo cơ chế REDD+ và đăng ký ban hành tín chỉ carbon.
Tổng lượng carbon được hấp thụ và lưu giữ ở Việt Nam rất lớn. Tuy nhiên, trữ lượng carbon có sự chênh lệch lớn ở từng loại rừng thuộc các vùng khác nhau, dao động từ khoảng 1 – 19 tấn carbon/ ha cho tới >150 tấn carbon/ha, trong đó rừng lá rộng thường xanh giàu vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ có trữ lượng carbon cao nhất (>150 tấn).
Theo Bộ NN&PTNT, Trữ lượng carbon rừng của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2018 tăng lên rõ rệt so với giai đoạn tham chiếu 1995 – 2010. Nếu chưa điều chỉnh kết quả giảm phát thải theo Chương trình 661 (Theo Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng) thì lượng giảm phát thải đạt tới 74 triệu tấn CO2/năm, còn nếu điều chỉnh kết quả giảm phát thải theo Chương trình 661, lượng giảm phát thải đạt 57 triệu tấn CO2/năm. Tín hiệu đáng mừng là trữ lượng hấp thụ carbon từ rừng không chỉ có xu hướng tăng so với giai đoạn trước mà còn tăng vượt so với mức phát thải trong lâm nghiệp.
Các chính sách về phát triển lâm nghiệp bền vững cũng đang được gấp rút hoàn thiện nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thương mại hóa tín chỉ carbon rừng. Từ năm 2018, Tổng cục Lâm nghiệp đã ký thỏa thuận giảm phát thải (ERPA) cho 6 tỉnh Bắc Trung Bộ với Ngân hàng Thế giới (WB) thông qua Quỹ đối tác carbon trong Lâm nghiệp. Dự án chuyển nhượng 10,3 triệu tấn CO 2 và nhận 51, 5 triệu USD cho các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng tự nhiên tại Bắc Trung Bộ. Cuối năm 2022, Chính phủ ban hành Nghị định 107/NĐ-CP về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải KNK vùng Bắc Trung Bộ. Đây được coi là tiền đề để thúc đẩy các hoạt động hợp tác tương tự giữa Việt Nam và các đối tác quốc tế khác trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
Đặc biệt, theo Báo cáo của Cục Lâm nghiệp, trong năm 2023, cả nước đã trồng được khoảng 250.000 ha rừng, đạt 102% kế hoạch năm 2023. Tỷ lệ che phủ rừng 42,02%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Tổng nguồn thu từ các loại dịch vụ môi trường rừng năm 2023 đạt 4.130,4 tỉ đồng.
Năm 2023 đánh dấu một cột mốc rất quan trọng, lần đầu tiên tại Việt Nam trong lĩnh vực lâm nghiệp đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng Thế giới (WB). Với đơn giá bán tín chỉ 5 USD/tấn carbon hấp thụ, tổng giá trị của hợp đồng lên tới 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỉ đồng).
Ông Nguyễn Quốc Trị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việc bán tín chỉ carbon nằm trong thỏa thuận chi trả phát thải nhà kính (ERPA) vùng Bắc Trung Bộ được ký ngày 22/10/2020 giữa Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn.
Đầu tháng 8/2023, WB đã thanh toán tiền ERPA đợt một cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là 41,2 triệu USD (tương đương 997 tỉ đồng), đạt 80% kết quả giảm phát thải theo ERPA đã ký. Số tiền còn lại 10,3 triệu USD tương đương 249 tỉ đồng sẽ thanh toán sau khi hoàn thành việc chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2.
Đến nay, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam đã tiếp nhận số tiền thanh toán đợt 1 từ WB và đã giải ngân toàn bộ để các tỉnh khẩn trương lập kế hoạch chi trả cho các chủ rừng thuộc 6 tỉnh Bắc Trung Bộ.
Trong số 6 tỉnh này, Nghệ An là tỉnh được giải ngân hơn 282 tỉ đồng, tiếp đến là Quảng Bình với hơn 235 tỉ đồng, Thanh Hóa 162 tỉ đồng, Hà Tĩnh 122 tỉ đồng, Thừa Thiên Huế 107 tỉ đồng và Quảng Trị hơn 51 tỉ đồng.
Bên cạnh số tín chỉ đã bán, WB đã xác nhận kết quả giảm phát thải toàn vùng Bắc Trung Bộ kỳ 1 (1/1/2018-31/12/2019) đạt 16,21 triệu tấn CO2 (tương đương 16,21 triệu tín chỉ). Trong đó, lượng chuyển nhượng theo ERPA đã ký là 10,3 triệu tấn CO2. Còn lại 5,91 triệu tấn CO2, WB muốn mua bổ sung 1 triệu tấn CO2. Còn 4,91 triệu tấn CO2, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang xin Chính phủ chấp thuận cho xây dựng phương án trao đổi, chuyển nhượng, thương mại để tạo nguồn lực bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng tại vùng Bắc Trung Bộ.
Tín chỉ carbon rừng được tạo ra từ các hoạt động dự án giảm phát thải nhà kính như giảm mất rừng và suy thoái rừng; tăng cường hoạt động trồng rừng, tái trồng rừng, tái tạo thảm thực vật và hoạt động tăng cường quản lý rừng. Chủ rừng có thể quy đổi diện tích rừng đang quản lý, bảo vệ ra lượng hấp thụ khí CO2, ra tín chỉ carbon và có thể bán tín chỉ này tại thị trường carbon qua cơ chế giảm phát thải khí nhà kính.
Có thể thấy, tiềm năng thị trường tín chỉ carbon rừng của Việt Nam là rất lớn. Vì thế, để thúc đẩy thị trường carbon rừng cả ở phạm vi trong nước và quốc tế, bắt buộc và tự nguyện, Việt Nam cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết nhằm tận dụng các cơ hội, góp phần đạt được mục tiêu Thỏa Thuận Paris cũng như giúp Việt Nam tiếp cận với nguồn tài chính quốc tế.
Đánh thức tiềm năng của vùng đất Tây Nguyên và Nam Trung Bộ
Theo thống kê, tính đến 31/12/2023, diện tích rừng vùng Tây Nguyên là 2,59 triệu hecta, tỷ lệ che phủ rừng đạt 46,34%. Tuy nhiên, tình trạng diện tích rừng đang có nguy cơ bị suy giảm do tình trạng phá rừng và chuyển đổi mục đích sử dụng. Diện tích rừng khu vực Tây Nguyên chủ yếu được phân bố ở sáu vườn quốc gia và các rừng phòng hộ.
Theo các chuyên gia ngành lâm nghiệp, để khôi phục rừng Tây Nguyên cần giải bài toán kinh tế từ rừng, mà trong đó, việc kinh doanh tín chỉ carbon được cho là sẽ đánh thức tiềm năng và giải quyết khó khăn cho ngành lâm nghiệp ở Tây Nguyên.
Mới đây, 11 tỉnh của vùng đất Tây Nguyên và Nam Trung Bộ đã được đưa vào danh sách tham gia giảm phát thải khí nhà kính theo ý định thư về mua bán tín chỉ giảm phát thải từ rừng mà Việt Nam và Tổ chức tăng cường tài chính lâm nghiệp (Emergent) đã ký vào tháng 10/2021. Theo đó, Việt Nam dự kiến sẽ chuyển nhượng 5,15 triệu tấn CO2, với giá tối thiểu là 10 USD/1 tấn CO2 tương đương.
"Theo thỏa thuận vùng Bắc Trung Bộ thì Ngân hàng Thế giới cam kết cho phép Việt Nam giữ lại 95% lượng kết quả giảm phát thải để đóng góp NDC, còn dự kiến Liên minh giảm phát thải Leaf cho Việt Nam đóng góp 100% thỏa thuận vùng Bắc Trung Bộ. Người ta mua là các kết quả giảm phát thải trong trong quá khứ, thỏa thuận vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ là giai đoạn tín chỉ từ năm 2021 – 2025, có nghĩa là giai đoạn hiện nay. Đây là những điểm khác biệt cơ bản giữa hai thỏa thuận".
Ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT thông tin
Trong kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính đến năm 2030, ngành nông nghiệp được giao giảm 130 triệu tấn CO2 tương đương. Vì vậy, lĩnh vực lâm nghiệp và sử dụng đất sẽ giảm tối thiểu 39 triệu tấn CO2 tương đương đến năm 2025 và 79 triệu tấn CO2 tương đương đến năm 2030. Để đạt mục tiêu này, việc chuẩn bị bước đàm phán tiếp theo cho một Thỏa thuận mới là rất quan trọng.
Tín chỉ carbon rừng là loại hàng hóa đặc biệt, để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh lĩnh vực này, Chính phủ cần ban hành nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư năm 2020 về cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh tín chỉ carbon rừng. Đây là hình thức hợp đồng được ký kết theo thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhằm đa dạng hóa các hình thức hợp tác, góp phần mang lại hiệu quả cao, bền vững trong việc đẩy mạnh kinh doanh tín chỉ carbon rừng trong xu thế phát triển hiện nay. Bảo vệ rừng, chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, hỗ trợ thích ứng cho các cộng đồng địa phương, giảm khí metan, hướng tới giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Việc phát triển dự án tín chỉ carbon rừng hoàn toàn phù hợp với định hướng Việt Nam trong việc tối ưu hóa các nguồn đầu tư xã hội hóa từ các doanh nghiệp và tổ chức trong nhiệm vụ bảo vệ, phát triển rừng. Vì thế khi nhận diện rõ được nhu cầu cấp thiết và đáp ứng được thách thức đặt ra sẽ tạo mà các dự án carbon tạo điều kiện để phát triển các dự án carbon rừng với tiêu chuẩn cao, phù hợp với các yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế, giúp giá thành tín chỉ carbon từ dự án rừng được nâng cao và đảm bảo tính ổn định trên thị trường.