Nhiệt điện than ở Việt Nam (Bài 1): Hiện trạng – xu thế phát triển
Tài nguyên và phát triển - Ngày đăng : 03:00, 03/11/2020
Hiện cả nước có 21 nhà máy nhiệt điện. Nguyên liệu chính để vận hành các nhà máy này thường sử dụng than nội địa hoặc than nhập khẩu.
Theo tính toán của Bộ Công Thương, khoảng 20 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành năm nay cung cấp khoảng 86 tỷ kWh, đóng góp 39% tổng lượng điện thương phẩm trong năm 2018, khoảng 220 tỷ kWh.
Các nhà máy này được dự báo đóng góp 116-120 tỷ kWh, chiếm 40% tổng sản lượng điện. Mức đóng góp của nhiệt điện than tăng lên để bù đắp thiếu hụt nguồn cung từ thủy điện do hậu quả của hạn hán.
Theo số liệu từ Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA), Việt Nam hiện có 21 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động, với tổng công suất lắp đặt khoảng 14.310 MW. Dự kiến, đến năm 2030 sẽ tăng lên 65 nhà máy, gấp 3 lần so với hiện tại.
Các NMNĐ than đã và đang góp một phần đáng kể vào quá trình phát triển của đất nước, tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các nhà máy này cũng đã phát sinh một lượng chất thải lớn (khí, nước và tro, xỉ thải, vật và chất nạo vét) đồng thời tác động nhất định đến môi trường và chất lượng sống của cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh.
Theo tính toán của EVN, để có lượng điện than cung cấp cho Việt Nam năm sau, tập đoàn này sẽ đốt khoảng 54 triệu tấn than. Điều này đồng nghĩa với mỗi ngày khoảng 150.000 tấn sẽ được tiêu thụ. Trong khi đó, khi đốt 10 tấn than sẽ có 3,3 tấn tro xỉ. Việc xử lý khối lượng thải này là bài toán nan giải.
Hiện nay, cả nước đang tồn khoảng 15 triệu tấn tro xỉ sau quá trình đốt than chưa thể xử lý.
Hơn nữa, nhiệt điện than được chứng minh có liên quan trực tiếp đến tình trạng sức khỏe của nhiều khu vực tại Việt Nam. Tại một hội thảo mới đây, ông Nguyễn Trọng An, Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng dẫn lại tài liệu công bố tháng 1/2017 liên quan đến số ca tư vong sớm ở Việt Nam do ô nhiễm nhiệt điện than. Theo đó, năm 2011, cả nước có 4.300 ca, thì dự báo số ca tử vong do ô nhiễm nhiệt điện than tăng tới 15.700 ca, gấp 3 lần.
NĐT của Việt Nam đang sử dụng phổ biến hai loại công nghệ lò hơi là: Công nghệ lò than phun (PC) và Công nghệ lò tầng sôi tuần hoàn (CFB), chưa có Công nghệ đốt tầng sôi áp lực (PFBC) và Công nghệ khí hóa chu trình kết hợp (IGCC). Nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) PC công nghệ siêu tới hạn đầu tiên vận hành là NMNĐ Vĩnh Tân 4 và Duyên Hải 3.
Theo dự báo của IEEJ, đến năm 2030, 2040 và 2050 mức phát thải CO2 từ ngành năng lượng của Việt Nam theo Kịch bản thông thường tương ứng từng năm là (tấn người): 3,0; 4,1 và 5,7; của Malaixia: 9,0; 9,5 và 10,3; của Thái Lan: 4,6; 5,6 và 6,6.
Các vấn đề về tác động môi trường của các NMNĐ than cần quan tâm giải quyết là:
– Kiểm soát chặt chẽ khí phát thải từ các lò hơi có các chất ô nhiễm chính gồm bụi, CO2, SO2, NOx trước khi xả ra ống khói để phát tán vào môi trường.
– Nghiên cứu tái chế, tái sử dụng tro, xỉ hiện đang chủ yếu thải trực tiếp ra bãi chứa.
+ Tuân thủ nghiêm ngặt quy định về việc thu gom và phân loại chất thải nguy hại.
+ Xử lý triệt để các hóa chất và nhiệt độ cao của hệ thống nước làm mát.
Phát triển Nhiệt điện than phải gắn với bảo vệ môi trường
Định hướng phát triển đến năm 2045
Mục tiêu phát triển ngành điện và NĐT được xác định như sau:
– Tổng công suất đặt sẽ đạt mức 130 GW vào năm 2030 và 221 GW vào năm 2045; Điện năng sản xuất sẽ khoảng 489,5 TWh vào năm 2030 và 922 TWh vào năm 2045.
– Về cơ cấu nguồn điện: Đến năm 2030, chiếm tỷ trọng lớn nhất 42,8%, thủy điện vừa và lớn 17%, nhiệt điện khí – dầu 17,3% và nguồn điện NLTT (điện mặt trời, điện gió, thủy điện nhỏ và điện sinh khối) 22,9%. Năm 2045, giảm còn 30%, thủy điện vừa và lớn 11,5%, nhiệt điện khí – dầu 18,3% và điện NLTT tăng lên 40,2%.
– Về cơ cấu sản xuất điện: Đến năm 2030, chiếm tỷ trọng lớn nhất 45,9%, nhiệt điện khí-dầu 24,4%, thủy điện 14,1% và điện NLTT (trừ thủy điện lớn) 15,6%. Vào năm 2045, tỷ trọng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất 41%, nhiệt điện khí-dầu 26,1%, thủy điện 8,3% và NLTT tăng lên đến 24,6%.
– Xây dựng hệ thống lưới điện vận hành linh hoạt, khả năng tự động hóa cao từ khâu truyền tải đến khâu phân phối; áp dụng công nghệ lưới điện thông minh, ứng dụng các công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Theo Quy hoạch điện 7 điều chỉnh (Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg) dự kiến tới năm 2020 sẽ đưa thêm một số nhà máy điện than (NMĐT) vào hoạt động và đưa tổng số NMĐT hoạt động lên 31 với tổng công suất đặt 24.370 MW và tiêu thụ khoảng 63 triệu tấn than/năm; năm 2025 là 47 NMĐT với tổng công suất 47.600 MW và tiêu thụ 95 triệu tấn than; năm 2030 là 64 NMĐT với tổng công suất 55.300MW và tiêu thụ 129 triệu tấn than.
Định hướng phát triển về công nghệ đối với NĐT tại Việt Nam trong thời gian tới như sau: Than Việt Nam chất lượng thấp + xít thải + sản phẩm phụ trong quá trình khai thác than, công nghệ đề xuất là lò CFB, thông số hơi cận tới hạn với tổ máy có gam công suất 200÷300MW; Than Việt Nam chất lượng tốt (cám 5, cám 6A), công nghệ lò than phun, thông số hơi cận tới hạn và siêu tới hạn, tổ máy có gam công suất 500÷1.000MW; Than nhập khẩu (chủ yếu từ Úc, Inđônêxia), công nghệ lò than phun, thông số hơi siêu tới hạn và trên siêu tới hạn, tổ máy có gam công suất 500÷1.000MW.
Dự báo nhu cầu than cho sản xuất điện
Theo cập nhật mới về mục tiêu phát triển NĐT nêu trên nhu cầu than cho điện (triệu tấn) đến năm 2020: 59,5; năm 2025: 86,0; năm 2030: 119,4 và năm 2035: 127,5. Như vậy, đến năm 2030-2035 nhu cầu than cho điện sẽ cao gấp trên dưới 3 lần so với năm 2017.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam nguồn than khai thác trong nước và nguồn than nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể là, tài nguyên than trong nước có mức độ thăm dò quá thấp, mới chỉ có khoảng 7,3% đạt cấp chắc chắn và tin cậy; điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, phức tạp, trong khi thuế, phí ngày càng tăng cao; việc cấp phép còn nhiều bất cập và tại khu vực Quảng Ninh một số quy hoạch địa phương còn chồng lấn quy hoạch than. Việc nhập khẩu than có một số khó khăn, thách thức là: Việt Nam mới tham gia thị trường nhập khẩu than nhiệt, trong khi thị trường này đã được các tập đoàn tài chính – thương mại lớn trên thế giới sắp đặt “trật tự” và chi phối từ lâu; cơ sở hạ tầng, hệ thống logistics phục vụ nhập khẩu than còn yếu, nhất là chưa có cảng trung chuyển than nhập khẩu quy mô lớn, năng lực vận chuyển đường sông nội địa từ cảng biển về các NMNĐ than quá mỏng; cơ chế chính sách và tổ chức nhập khẩu than cho các NMNĐ còn nhiều bất cập.
An Nhiên