Tản mạn tết miền Tây

Cuộc sống xanh - Ngày đăng : 10:00, 02/02/2025

Trong kho tàng văn hoá dân tộc nói chung, và miền Tây Nam bộ nói riêng, Tết hiện lên như một rừng hoa đầy hương sắc. Không phải là mùa, cũng chẳng là tháng nào cụ thể, nhưng Tết mang những đặc trưng riêng biệt, chẳng xen lẫn với bất cứ thời điểm nào của năm và nổi bật lên một cách kiêu sa, lộng lẫy… Bởi Tết là thời điểm chứa đựng mùi hương, màu sắc, không khí đặc trưng và dễ chịu nhất trong năm!
Cuộc sống xanh

Tản mạn tết miền Tây

Lê Quang Trạng 02/02/2025 10:00

Trong kho tàng văn hoá dân tộc nói chung, và miền Tây Nam bộ nói riêng, Tết hiện lên như một rừng hoa đầy hương sắc. Không phải là mùa, cũng chẳng là tháng nào cụ thể, nhưng Tết mang những đặc trưng riêng biệt, chẳng xen lẫn với bất cứ thời điểm nào của năm và nổi bật lên một cách kiêu sa, lộng lẫy… Bởi Tết là thời điểm chứa đựng mùi hương, màu sắc, không khí đặc trưng và dễ chịu nhất trong năm!

Ở nước ta, với sự phát triển sớm và rực rỡ của nền văn minh lúa nước, các bậc tiền nhân đã dựa vào sự tuần hoàn của thời tiết và quá trình canh tác nông nghiệp mà chia 24 tiết khí vào thành một năm. Mỗi tiết khí là một giai đoạn kéo dài 14 – 16 ngày, ứng với các yếu tố như: Lập xuân (bắt đầu mùa Xuân), Kinh trập (sâu bắt đầu nở), Cốc vũ (mưa rào), Tiểu mãn (lũ nhỏ), Bạch lộ (nắng nhạt), Đại hàn (rét đậm)… Và khí tiết đầu tiên, khởi đầu mùa vụ mới của năm được xem là tiết quan trọng nhất (sau đọc trại thành “Tết”), gắn liền với nhiều sự kiện như tuổi đời, tính năm, hội hè... Dần dà, Tết gắn thêm nhiều hoạt động ý nghĩ khác, trở thành phong tục, tập quán và nếp văn hoá không thể thiếu trong tâm thức người Việt.

dia-diem-du-lich-mien-tay-tet-1.png

Cùng chung nền văn hoá Á Đông nên việc ăn Tết của nhân dân ta với một số nước lân cận có những nét tương đồng. Tuy nhiên, phong tục ăn Tết của người Việt không phải được lưu truyền từ Trung Hoa sang trong thời kỳ Bắc thuộc, mà trước đó rất lâu, từ thời Vua Hùng dựng nước, dân ta đã có văn hoá đón Tết của riêng mình. Truyện cổ truyền rằng, vào đời Hùng Vương thứ 6 (khoảng năm 1712 – 1632 trước Công nguyên), dân ta đã có tục ăn Tết. Vào dịp Tết đầu tiên sau khi sau khi Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân, đất nước thái bình, mùa màng bội thu, nhà nhà no ấm; vua Hùng muốn truyền ngôi cho người tài đức vẹn toàn nên ra cuộc thi “Tết năm nay, ai đem lễ vật hợp với ý của ta đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”. Lang Liêu – Người tánh hiền lành, thật thà, chất phác và hiếu nghĩa, không có khả năng đi tìm sơn hào hải vị, nên tận dụng các sản vật nông nghiệp thân thuộc như nếp, đậu, lá dong… chế biến thành bánh chưng hình vuông đại diện cho đất và bánh dày hình tròn đại diện cho trời dâng lên vua cha và được Hùng Vương rất hài lòng, liền ban chiếu truyền ngôi lại cho Lang Liêu. Từ dạo ấy đến nay đã hàng nghìn năm, nhưng bao giờ vào dịp Tết, dân ta cũng dâng cúng tổ tiên bánh dày bánh chưng để thể hiện lòng hiếu đạo và cũng là cách nhắc nhở con cháu đời sau về tục ăn Tết của ông cha mình.

Trong quá trình mở mang bờ cõi, phát triển giống nòi, những cháu con của “Hùng Vương – Lang Liêu” dần đi về phương Nam, len lỏi rừng sâu vạn dặm để khai hoang, lập nghiệp. Trong cuộc di cư đầy gian nan, thử thách và khắc nghiệt ấy, tùy hoàn cảnh mà những phong tục tập quán truyền thống thuở xưa được thay đổi nhằm thích ứng với thiên nhiên, dần dà định hình nên một nếp văn hoá vừa tương đồng vừa có những nét khu biệt. Đơn cử như trong hành trình mở cõi, mỗi dịp Tết về, để gói bánh cúng tổ tiên mà phương Nam không có sẵn lá cây dong, dây từ thân cây giang thì người xưa tận dụng lá chuối làm lá gói, thân hoặc cuốn làm dây “nứt” bánh. Bên cạnh đó, để tiện cho việc di chuyển, tiền nhân đã nghĩ ra việc thay đổi hình thức chiếc bánh chưng từ hình vuông sang hình trụ tròn để đễ mang đi xa và tiện khi muốn ăn thì chỉ cần lấy dây gói bánh và “cắt” cho bánh “tét” ra thành từng khoanh vừa miệng. Nhân đó cũng đặt cho tên mới của bánh là “bánh tét”. Đó cũng là thông điệp về sự thích ứng với thiên nhiên của người đi mở cõi, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, lưu truyền đến ngày nay…

Bằng sự thích ứng tài tình, khí hậu miền Nam không có hoa đào thì người dân trồng hoa mai rực vàng mỗi mùa Xuân đến. Cây mai Tết ngày nay có nguồn gốc từ loài mai dại mọc hoang trong những cánh rừng nhiệt đới ở dãy Trường Sơn. Phải chăng dọc đường mở cõi phương Nam, tiền nhân đã lai tạo giống mai dại này thành những cây mai Tết; để ngày nay, mai trở thành đặc trưng của miền sông nước. Có người mê hoa mai, trồng và chăm sóc mai chẳng thua gì chăm sóc vợ con. Và cái khoảnh khắc rực vàng của những cành mai ngày Tết mưa đã xua đi bao mệt mỏi suốt một năm ròng và như sự trả ơn, mai luôn mang đến niềm tin về tài lộc và sự may mắn vào năm mới!

Sống với sông nước ruộng vườn bốn mùa mát ngọt, tính cách người miền Tây cũng vì thế mà rộng rãi và hào sảng, nghĩ giản đơn, không cầu kỳ nhưng cũng rất trọng lễ nghĩa. Người miền Tây không có cổng làng, nhà thờ họ nhưng sâu xa trong tâm thức, họ vẫn trọng vọng Tổ tiên và vẫn còn đâu đó nỗi nhớ miền cố thổ. Hàng năm vào những ngày giáp Tết, các gia đình thường bày mâm trên bàn thờ tổ tiên để “rước” ông bà đã quá cố “về non về núi tu” hay “về với quê cha đất tổ miền Trung” trở lại gia đình chung vui Tết với con cháu. Trong suốt những ngày Tết, 2 lần sáng chiều mỗi bữa, con cháu đều trang nghiêm dọn mâm cơm với những món đặc trưng của Tết lên bàn thờ để ông bà dùng bữa như khi còn sống. Đến hết mùng 3 hoặc hết mùng 7 (hạ nêu), con cháu sẽ làm một mâm thịnh soạn để tiễn ông bà và hẹn năm sau lại “rước” ông bà về chơi Tết.

Bên cạnh đó, còn một số dòng tộc vẫn giữ được nhiều nếp xưa từ thời mở cõi, thì hầu hết đều có tục cúng việc lề. Hai chữ việc lề nói lên, đây là “việc” đã có “lề lối” và “thông lệ”, không được khác đi. Trong buổi cúng việc lề, con cháu của cả dòng họ tựu về nhà của một người được chọn cố định truyền đời hay luân phiên nhau tổ chức ở các nhà khác nhau. Lễ vật dâng lên lễ cúng có phần khá đặc biệt, mang ý nghĩa gắn liền với công cuộc khẩn hoang như cháo ám (cháo cá nấu rất lỏng, cá làm sơ sài như thời gian khó xa xưa) hay “tích” riêng của dòng họ như miếng da voi (vì xưa kia dòng họ này chuyên nghề săn voi)… Mỗi dòng họ thường sẽ có những vật phẩm việt lề khác nhau và cách lý giải cũng khác nhau. Người ta cho rằng, khi vào nam khai khẩn, chiến tranh loạn lạc có khi phải lang bạt kỳ hồ, thay tên đổi họ… nên các bậc tiền nhân đã dặn lại con cháu những món “quy ước đặt biệt” để sau này nhìn dòng họ với nhau… Ngày nay, từ mồng một đến hết tháng Giêng, dọc theo vùng Châu Đốc và kinh Vĩnh Tế - nơi năm xưa có nhiều đoàn dân phu gốc miền Trung được Thống suất Thoại Ngọc Hầu chiêu mộ đào kinh, xây làng lập ấp, ta vẫn thấy nhiều gia đình dọn mâm cúng việc lề rất trang nghiêm lễ bái. Sau lễ đều có tục thả chiếc ghe bầu bằng chuối (tàu tống) xuống sông để tưởng nhớ ông bà xưa đã “Nam tiến Bắc hồi”…

Người miền Tây có tục, nhà cửa dù một năm bụi bặm, bề bộn do công việc mưu sinh đến mấy thì trước phút giao thừa, cũng phải dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, làm mới vật dụng, bếp núc; sơn lại nhà cửa, sửa lại tủ bàn… Không chỉ cửa nhà, mà với tâm niệm “sống nhờ nhà, chết nhờ mồ”, những ngày giáp Tết này, người ta cũng làm một cuộc dọn cỏ, đắp đất, quét vôi mồ mả tổ tiên…

Mùa Tết về, đường xá, nhà nhà dường như mới tinh tươm, người người sắm cho mình áo quần mới để đi hưởng lộc… Đất người như đổi thay sau đợt “dọn mình” để chào đón những điều tươi mới. Chính tâm thức này, cùng sự hiền hoà, bao dung của người dân sông nước, mà trong những buổi gặp gỡ dịp Tết, những buồn giận năm qua sẽ được xem như “chuyện cũ bỏ qua”, năm mới nói chuyện mới, gắn kết mới…

Hình thành và phát triển chỉ hơn 300 lần Tết, nhưng mùa Tết nào của miền Tây Nam Bộ cũng là mùa rộn ràng và chất chứa nhiều nét đẹp đặc trưng văn hoá. Mang tâm thức Tết cổ truyền từ cái nôi của nền văn minh lúa nước, cắm xuống miền đồng bằng châu thổ Cửu Long, tâm thức ấy liền bén rễ trổ bông hết sức đặc trưng và hấp dẫn. Những giá trị tốt đẹp đó như liều thuốc thần dược, thôi thúc chúng ta, dẫu đi đâu làm đâu, cũng cố gắng vươn lên để mùa Tết phía tương lai, sẽ được về quê tắm mình trong một không gian Tết đậm đà hương sắc và mê đắm!

Lê Quang Trạng