Rác thải y tế - Chất thải đặc thù, làm sao quản lý?
Môi trường - Tài nguyên - Ngày đăng : 18:41, 18/03/2025
Rác thải y tế - Chất thải đặc thù, làm sao quản lý?
Chất thải y tế là một trong những nguồn thải nguy hại, nếu không được quản lý chặt chẽ sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người. Theo thống kê của Bộ Y tế, mỗi ngày hệ thống y tế trên cả nước phát sinh khoảng 400 - 600 tấn chất thải y tế, trong đó có khoảng 20-25% là chất thải nguy hại.

P/S: Rác thải y tế là một loại chất thải đặc thù phát sinh từ các cơ sở y tế như bệnh viện, phòng khám, phòng thí nghiệm và trung tâm chăm sóc sức khỏe. Đây là nguồn chất thải chứa nhiều thành phần nguy hại, có khả năng gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người nếu không được quản lý, xử lý đúng cách.
Rác thải y tế không chỉ là vấn đề môi trường mà còn là thách thức đối với sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững. Hiện nay, rác thải y tế được xử lý bằng nhiều phương pháp như thiêu đốt, tiệt trùng nhiệt ướt, xử lý hóa học và chôn lấp an toàn. Tuy nhiên, nếu việc quản lý và xử lý không đúng quy trình có thể dẫn đến ô nhiễm đất, nước, không khí, làm lây lan dịch bệnh và gây nguy hiểm cho cộng đồng. Chính vì thế, ngoài nâng cao nhận thức, ý thức cho người dân thì việc tăng cường quy định quản lý và áp dụng công nghệ xanh trong xử lý chất thải là những giải pháp quan trọng nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của rác thải y tế đối với môi trường và sức khỏe con người.
Câu chuyện về rác thải y tế không chỉ dừng lại ở khía cạnh phân loại và xử lý, mà còn đặt ra những vấn đề lớn hơn về chính sách, công nghệ và ý thức cộng đồng. Làm thế nào để kiểm soát và xử lý rác thải y tế hiệu quả? Những mô hình nào đã thành công trên thế giới? Đâu là giải pháp bền vững cho Việt Nam trong bối cảnh phát triển y tế ngày càng mạnh mẽ?
Trên cơ sở đó, Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống sẽ thực hiện Chuyên đề "Rác thải y tế - Chất thải đặc thù, làm sao quản lý?". Tuyến chuyên đề sẽ có loạt bài viết đi sâu vào từng khía cạnh, từ thực trạng quản lý, những nguy cơ tiềm ẩn đến các giải pháp công nghệ, chính sách và hành động thiết thực. Đây không chỉ là vấn đề của ngành y tế, mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội trong việc bảo vệ môi trường và sức khỏe con người.
Bài 1: Bức tranh toàn cảnh về chất thải y tế tại Việt Nam
Chất thải y tế là gì, có bao nhiêu loại chất thải y tế?
Chất thải y tế là bất kỳ chất thải nào có chứa chất nhiễm trùng (hoặc vật liệu có khả năng truyền nhiễm). Bao gồm chất thải phát sinh từ các cơ sở y tế như văn phòng bác sĩ, bệnh viện, phòng khám nha khoa, phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu y khoa và phòng khám thú y. Chất thải y tế có thể chứa chất lỏng cơ thể như máu hoặc các chất gây ô nhiễm khác. Đạo luật Theo dõi Chất thải Y tế năm 1988 định nghĩa chất thải y tế là chất thải phát sinh trong quá trình nghiên cứu y học, xét nghiệm, chẩn đoán, tiêm chủng, hoặc điều trị cho người hoặc động vật. Một số ví dụ như thủy tinh, băng gạc, găng tay, các vật dụng sắc nhọn đã bị loại bỏ như kim hoặc dao mổ, gạc và khăn giấy.

Khoản 1 Điều 3 Thông tư 20/2021/TT-BYT định nghĩa về chất thải y tế như sau: Chất thải y tế là chất thải phát sinh từ hoạt động của cơ sở y tế, bao gồm chất thải y tế nguy hại, chất thải rắn thông thường, khí thải, chất thải lỏng không nguy hại và nước thải y tế.
Cũng theo Thông tư 20/2021/TT-BYT, việc phân định chất thải y tế được quy định cụ thể tại Điều 4. Theo đó, chất thải y tế được chia làm 6 loại trong đó chất thải y tế nguy hại bao gồm: Chất thải lây nhiễm và chất thải nguy hại không lây nhiễm.
Chất thải lây nhiễm bao gồm: chất thải lây nhiễm sắc nhọn, chất thải lây nhiễm không sắc nhọn và chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao, chất thải giải phẫu. Trong đó:
Chất thải lây nhiễm sắc nhọn bao gồm kim tiêm, bơm liền kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền, kim chọc dò, kim châm cứu, lưỡi dao mổ, đinh, cưa dùng trong phẫu thuật, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ, các vật sắc nhọn khác đã qua sử dụng thải bỏ có dính, chứa máu của cơ thể hoặc chứa vi sinh vật gây bệnh;
Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn bao gồm bông, băng, gạc, găng tay, các chất thải không sắc nhọn khác thấm, dính, chứa máu của cơ thể, chứa vi sinh vật gây bệnh; vỏ lọ vắc xin thuộc loại vắc xin bất hoạt hoặc giảm độc lực thải bỏ; chất thải lây nhiễm dạng lỏng (bao gồm dịch dẫn lưu sau phẫu thuật, thủ thuật y khoa, dịch thải bỏ chứa máu của cơ thể người hoặc chứa vi sinh vật gây bệnh);
Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao bao gồm mẫu bệnh phẩm, dụng cụ đựng, dính mẫu bệnh phẩm, chất thải dính mẫu bệnh phẩm thải bỏ từ các phòng xét nghiệm tương đương an toàn sinh học cấp II trở lên; các chất thải phát sinh từ buồng bệnh cách ly, khu vực điều trị cách ly, khu vực lấy mẫu xét nghiệm người bệnh mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhóm A, nhóm B;
Chất thải giải phẫu bao gồm mô, bộ phận cơ thể người thải bỏ, xác động vật thí nghiệm;

Chất thải nguy hại không lây nhiễm bao gồm: Hóa chất thải bỏ có thành phần, tính chất nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại hoặc có cảnh báo nguy hại trên bao bì từ nhà sản xuất;
Dược phẩm thải bỏ thuộc nhóm gây độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy hại trên bao bì từ nhà sản xuất;
Vỏ chai, lọ đựng thuốc hoặc hoá chất, các dụng cụ dính thuốc hoặc hoá chất thuộc nhóm gây độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy hại trên bao bì từ nhà sản xuất;
Thiết bị y tế bị vỡ, hỏng, đã qua sử dụng thải bỏ có chứa thủy ngân, cadimi (Cd); pin, ắc quy thải bỏ; vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn tia xạ thải bỏ;
Dung dịch rửa phim X- Quang, nước thải từ thiết bị xét nghiệm, phân tích và các dung dịch thải bỏ có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại;
Chất thải y tế khác có thành phần, tính chất nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại hoặc có cảnh báo nguy hại từ nhà sản xuất.
Chất thải rắn thông thường bao gồm: Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hoạt động sinh hoạt thường ngày của nhân viên y tế, người bệnh, người nhà người bệnh, học viên, khách đến làm việc và các chất thải ngoại cảnh trong cơ sở y tế (trừ chất thải sinh hoạt phát sinh từ khu vực cách ly, điều trị người mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm);
Hóa chất thải bỏ không có thành phần, tính chất nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại;
Vỏ chai, lọ đựng thuốc hoặc hoá chất, dụng cụ dính thuốc hoặc hoá chất không thuộc nhóm gây độc tế bào hoặc không có cảnh báo nguy hại trên bao bì từ nhà sản xuất;
Vỏ lọ vắc xin thải bỏ không thuộc loại vắc xin bất hoạt hoặc giảm độc lực;
Chất thải sắc nhọn không lây nhiễm, không có thành phần, tính chất nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại;
Chất thải lây nhiễm sau khi đã xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường;
Bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải không có thành phần, tính chất nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại; tro, xỉ từ lò đốt chất thải rắn y tế không có thành phần, tính chất nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại;
Chất thải rắn thông thường khác;
Danh mục chất thải rắn thông thường được phép thu gom phục vụ mục đích tái chế quy định tại Phụ lục số 01 ban hành kèm theo Thông tư này.
Khí thải bao gồm khí thải phát sinh từ phòng xét nghiệm tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lây truyền qua đường không khí; khí thải từ phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp III trở lên.
Chất thải lỏng không nguy hại bao gồm dung dịch thuốc, hoá chất thải bỏ không thuộc nhóm gây độc tế bào, không có cảnh báo nguy hại từ nhà sản xuất, không chứa yếu tố nguy hại vượt ngưỡng, không chứa vi sinh vật gây bệnh.
Nước thải y tế gồm nước thải phát sinh từ hoạt động chuyên môn trong cơ sở y tế. Trường hợp nước thải sinh hoạt thải chung vào hệ thống thu gom nước thải y tế thì được quản lý như nước thải y tế.
Các nguồn phát sinh chất thải y tế
Nguồn phát sinh chất thải y tế phát sinh chủ yếu tại các bệnh viện; các cơ sở y tế khác như trung tâm vận chuyển cấp cứu, phòng khám sản phụ khoa, nhà hộ sinh, phòng khám ngoại trú, trung tâm lọc máu; các trung tâm xét nghiệm và nghiên cứu y sinh học; ngân hàng máu... và đặc biệt ở các khu vực xét nghiệm, khu phẫu thuật, bào chế dược. Hầu hết các chất thải y tế đều có tính chất độc hại và tính đặc thù khác với các loại chất thải khác.

Lượng chất thải y tế phát sinh trong ngày khác nhau giữa các bệnh viện, cơ sở y tế và tùy thuộc số giường bệnh, bệnh viện chuyên khoa hay đa khoa, trung tâm y tế cũng như các thủ thuật chuyên môn được thực hiện tại bệnh viện, số lượng vật tư tiêu hao được sử dụng...
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, cả nước có 51.962 cơ sở y tế, bao gồm 13.641 cơ sở y tế công lập và 38.321 cơ sở y tế ngoài công lập, trong đó có 73 cơ sở y tế công lập tuyến trung ương (42 bệnh viện; 31 cơ sở khác); 838 cơ sở y tế công lập tuyến tỉnh (428 bệnh viện; 410 cơ sở y tế dự phòng); 1.599 cơ sở y tế công lập tuyến huyện (570 bệnh viện; 649 trung tâm y tế tuyến huyện và 380 phòng khám đa khoa khu vực); 11.131 trạm y tế xã; 321 bệnh viện ngoài công lập; 38.000 phòng khám ngoài công lập.
Với số lượng cơ sở y tế lớn, các nguồn phát thải cũng theo đó ngày càng gia tăng. Đây cũng là áp lực lớn đối với công tác quản lý, xử lý chất thải, nước thải y tế trong thời gian tới. Với tổng lượng nước thải y tế phát sinh trung bình 130.000 m3/ngày, đêm; tổng lượng chất thải rắn y tế phát sinh trung bình khoảng 441 tấn/ngày, trong đó chất thải rắn y tế nguy hại là 71,5 tấn/ngày trên cả nước thì yêu cầu đặt ra đối với công tác kiểm soát nguồn thải, xử lý chất thải càng nặng nề.

Thế nên để công tác kiểm soát nguồn thải, xử lý chất thải trong lĩnh vực này đạt hiệu quả và đi vào nền nếp thì điều đầu tiên cần làm chính là việc phân loại, thu gom chất thải y tế. Điều này được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 20/2021/TT-BYT của Bộ Y tế.
Quy định cụ thể về phân loại chất thải y tế
Ngày 26/11/2021, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 20/2021/TT-BYT quy định về quản lý chất thải y tế trong phạm vi khuôn viên cơ sở y tế. Tại Thông tư trên, Bộ Y tế quy định chi tiết việc phân loại, thu gom, lưu giữ, quản lý chất thải y tế trong phạm vi khuôn viên cơ sở y tế.

Theo đó, về nguyên tắc phân loại chất thải y tế là phải phân loại để quản lý ngay tại nơi phát sinh và tại thời điểm phát sinh; Từng loại chất thải y tế phải phân loại riêng vào trong bao bì, dụng cụ thiết bị lưu chứa chất thải theo quy định tại Điều 5 Thông tư này. Trường hợp các chất thải y tế nguy hại không có khả năng phản ứng, tương tác với nhau và áp dụng cùng một phương pháp xử lý có thể được phân loại chung vào cùng một bao bì, dụng cụ, thiết bị lưu chứa (trừ chất thải lây nhiễm sắc nhọn).
Trường hợp chất thải lây nhiễm để lẫn với chất thải khác thì hỗn hợp chất thải đó phải thu gom, lưu giữ và xử lý như chất thải lây nhiễm và tiếp tục thực hiện quản lý theo tính chất của chất thải sau xử lý.
Về vị trí đặt bao bì, dụng cụ phân loại chất thải: Tại khoa, phòng, bộ phận: bố trí vị trí phù hợp, an toàn để đặt bao bì, dụng cụ, thiết bị lưu chứa để phân loại chất thải y tế; Tại vị trí đặt bao bì, dụng cụ, thiết bị lưu chứa phải có hướng dẫn cách phân loại và thu gom chất thải.
Đối với chất thải lây nhiễm; chất thải lây nhiễm sắc nhọn: bỏ vào trong thùng hoặc hộp kháng thủng và có màu vàng; Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn: bỏ vào trong thùng có lót túi và có màu vàng; Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao: bỏ vào trong thùng có lót túi và có màu vàng; Chất thải giải phẫu: bỏ vào trong 2 lần túi hoặc trong thùng có lót túi và có màu vàng; Chất thải lây nhiễm dạng lỏng: chứa trong túi kín hoặc dụng cụ lưu chứa chất lỏng và có nắp đậy kín.
Đối với phân loại chất thải nguy hại không lây nhiễm: Chất thải nguy hại phải được phân loại theo mã chất thải nguy hại để lưu giữ trong các bao bì, dụng cụ, thiết bị lưu chứa phù hợp. Được sử dụng chung bao bì, dụng cụ, thiết bị lưu chứa đối với các chất thải nguy hại có cùng tính chất, không có khả năng gây phản ứng, tương tác lẫn nhau và có khả năng xử lý bằng cùng một phương pháp;
Chất thải nguy hại không lây nhiễm ở dạng rắn: đựng trong túi hoặc thùng hoặc thùng có lót túi và có màu đen; Chất thải nguy hại không lây nhiễm dạng lỏng: chứa trong dụng cụ lưu chứa chất lỏng có nắp đậy kín, có mã, tên loại chất thải lưu chứa.
Về phân loại chất thải rắn thông thường: Chất thải rắn thông thường không sử dụng để tái chế: đựng trong túi hoặc thùng hoặc thùng có lót túi và có màu xanh. Chất thải sắc nhọn đựng trong dụng cụ kháng thủng; Chất thải rắn thông thường sử dụng để tái chế: đựng trong túi hoặc thùng hoặc thùng có lót túi và có màu trắng; Về phân loại chất thải lỏng không nguy hại: chứa trong dụng cụ đựng chất thải lỏng có nắp đậy kín, có tên loại chất thải lưu chứa.
Thực trạng xử lý chất thải y tế tại Việt Nam
Hiện nay, việc xử lý chất thải y tế tại Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cụ thể:
• Hệ thống xử lý chưa đồng bộ: Phần lớn bệnh viện tuyến huyện và cơ sở y tế tư nhân chưa có hệ thống xử lý chất thải đạt chuẩn. Nhiều nơi vẫn sử dụng phương pháp đốt lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
• Thiếu cơ sở hạ tầng: Nhiều địa phương chưa có cơ sở xử lý chất thải y tế tập trung, khiến việc thu gom và vận chuyển gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở khu vực nông thôn và miền núi.
• Tình trạng xử lý không đúng quy trình: Một số đơn vị y tế không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về phân loại, thu gom và xử lý, dẫn đến nguy cơ phát tán chất thải nguy hại ra môi trường.
• Chi phí xử lý cao: Việc xử lý chất thải y tế nguy hại đòi hỏi công nghệ tiên tiến và nguồn lực tài chính lớn, gây áp lực lên các cơ sở y tế, đặc biệt là bệnh viện công lập.
• Vi phạm trong xử lý chất thải: Một số công ty xử lý chất thải y tế bị phát hiện đổ trộm rác thải nguy hại ra môi trường hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn, gây ô nhiễm nghiêm trọng.

Dù đã có nhiều tiến bộ trong công tác quản lý chất thải y tế, nhưng vẫn còn nhiều thách thức như: Một số bệnh viện chưa thực hiện nghiêm túc việc phân loại rác tại nguồn; Cơ sở hạ tầng xử lý chất thải y tế còn hạn chế, đặc biệt ở tuyến y tế cơ sở; Việc giám sát các đơn vị thu gom, xử lý còn chưa chặt chẽ, dẫn đến nguy cơ chất thải nguy hại bị đổ trộm ra môi trường.
Không để ảnh hưởng tới bệnh nhân
Thông tư số 20/2021/TT-BYT quy định rất cụ thể về hoạt động thu gom chất thải y tế, nhất là chất thải lây nhiễm; chất thải không lây nhiễm; chất thải thông thường.
Cụ thể, đối với thu gom chất thải y tế lây nhiễm: Cơ sở y tế phải quy định luồng đi và thời điểm thu gom chất thải lây nhiễm phù hợp để hạn chế ảnh hưởng đến khu vực chăm sóc người bệnh và khu vực khác trong cơ sở y tế; Dụng cụ thu gom chất thải phải bảo đảm kín, không rò rỉ dịch thải trong quá trình thu gom; Chất thải lây nhiễm phải thu gom riêng từ nơi phát sinh về khu vực lưu giữ chất thải tạm thời trong cơ sở y tế. Trước khi thu gom, túi đựng chất thải phải buộc kín miệng, thùng đựng chất thải phải có nắp đậy kín;
Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phải xử lý sơ bộ ở gần nơi phát sinh chất thải để loại bỏ mầm bệnh bằng thiết bị khử khuẩn. Đối với cơ sở y tế không có thiết bị khử khuẩn chất thải, trước khi thu gom túi đựng chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phải buộc kín miệng túi và tiếp tục bỏ vào túi đựng chất thải lây nhiễm thứ 2, buộc kín miệng túi và bỏ vào thùng thu gom chất thải lây nhiễm, bên ngoài thùng có dán nhãn "CHẤT THẢI CÓ NGUY CƠ LÂY NHIỄM CAO", được thu gom, lưu giữ riêng tại khu lưu giữ chất thải lây nhiễm để xử lý hoặc chuyển cho đơn vị có chức năng xử lý theo quy định;
Chất thải lây nhiễm dạng lỏng thu gom vào hệ thống thu gom nước thải y tế của cơ sở y tế và quản lý theo quy định về quản lý nước thải y tế; Tần suất thu gom chất thải lây nhiễm từ nơi phát sinh về khu lưu giữ chất thải trong khuôn viên cơ sở y tế tối thiểu một lần một ngày. Đối với các cơ sở y tế có lượng chất thải lây nhiễm phát sinh dưới 05 kg trong một ngày, chất thải lây nhiễm được thu gom với tần suất tối thiểu một lần một ngày, chất thải lây nhiễm sắc nhọn được thu gom tối thiểu là một lần một tháng.
Đối với thu gom chất thải nguy hại không lây nhiễm: Chất thải nguy hại không lây nhiễm được thu gom, lưu giữ riêng tại khu lưu giữ chất thải trong cơ sở y tế; Thiết bị y tế bị vỡ, hỏng, đã qua sử dụng thải bỏ có chứa thủy ngân được thu gom và lưu giữ riêng trong các hộp bằng nhựa hoặc các vật liệu phù hợp, bảo đảm không bị rò rỉ, phát tán hơi thủy ngân ra môi trường.
Bên cạnh đó, thông tư cũng quy định về thu gom chất thải rắn thông thường; Thu gom chất thải lỏng không nguy hại; Khí thải; Thu gom nước thải.
Có thể thấy, việc xử lý chất thải y tế không chỉ là trách nhiệm của ngành y tế mà cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, doanh nghiệp và toàn xã hội. Nếu thực hiện tốt công tác phân loại, thu gom và xử lý đúng quy trình, Việt Nam có thể hạn chế tối đa tác động tiêu cực của chất thải y tế đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.