Chuyển đổi số khu vực công là tiền đề vững chắc cho kinh tế - xã hội phát triển
Phát triển xanh - Ngày đăng : 16:51, 17/07/2025
Chuyển đổi số khu vực công là tiền đề vững chắc cho kinh tế - xã hội phát triển
Chuyển đổi số trong khu vực công đang nổi lên như một trụ cột chiến lược trong tiến trình cải cách thể chế quốc gia, nhất là trong bối cảnh yêu cầu nâng cao năng lực quản trị, hiện đại hóa nền hành chính và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực công.
Diễn đàn “Chuyển đổi số khu vực công - Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội” do Báo Điện tử Tiếng nói Việt Nam (VOV) tổ chức, diễn ra sáng nay (17/7) tại Hà Nội thu hút sự tham gia của hơn 200 đại biểu, gồm đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, viện nghiên cứu, trường đại học, cùng đại diện các doanh nghiệp Nhà nước…
Tại diễn đàn, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu hàng đầu đã tập trung thảo luận việc ứng dụng công nghệ số vào khu vực công không chỉ để tối ưu hóa hoạt động của các cơ quan Nhà nước, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp Nhà nước và người dân tiếp cận dịch vụ công được nhanh chóng.
Đâu là “nút thắt” trong chuyển đổi số khu vực công
Phát biểu khai mạc diễn đàn, Phó Tổng Giám đốc VOV Phạm Mạnh Hùng cho biết, trong những năm gần đây, chuyển đổi số là xu thế tất yếu và đòi hỏi khách quan của sự phát triển trong thời đại ngày nay, mở ra cơ hội cho các quốc gia bứt phá, vươn lên.
Tại Việt Nam, chuyển đổi số đã được xác định là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tiến trình chuyển đổi đang diễn ra rất mạnh mẽ, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, quá trình chuyển đổi số trong khu vực công cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức về hạ tầng số, đặc biệt ở cấp cơ sở chưa đồng bộ; dữ liệu thiếu kết nối, thiếu chia sẻ giữa các bộ, ngành, địa phương; nguồn nhân lực có nơi chưa đáp ứng yêu cầu, tâm lý e dè đổi mới ở một số nơi.
Cùng với đó, hệ thống thể chế và chính sách pháp luật về chuyển đổi số còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ; các quy định pháp lý liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân, an ninh mạng, định danh điện tử, chia sẻ và kết nối dữ liệu giữa các hệ thống thông tin vẫn chưa đầy đủ và thống nhất…
Do vậy, ông Phạm Mạnh Hùng mong muốn, diễn đàn sẽ là cầu nối để các đại biểu, chuyên gia, nhà hoạch định chính sách cùng trao đổi, hiến kế, tháo gỡ những “nút thắt” đang cản trở quá trình chuyển đổi số khu vực công, để đưa chuyển đổi số khu vực công tiến gần hơn tới mục tiêu phục vụ người dân, doanh nghiệp tốt hơn, và từ đó góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
“Nhận thức rõ tầm quan trọng của chuyển đổi số, Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiều nhóm giải pháp ở các ngành, lĩnh vực khác nhau, trong đó có lĩnh vực chuyển đổi số. Đại hội đã xác định, phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số và coi đây là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”, Phó Tổng Giám đốc VOV Phạm Mạnh Hùng nói.
Tại diễn đàn, các chuyên gia, các nhà hoạch định chính sách đều nhất trí rằng, chuyển đổi số trong khu vực công đang nổi lên như một trụ cột chiến lược trong tiến trình cải cách thể chế quốc gia, nhất là trong bối cảnh yêu cầu nâng cao năng lực quản trị, hiện đại hóa nền hành chính và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực công.
Việc thúc đẩy số hóa không còn là xu hướng công nghệ đơn thuần, mà trở thành điều kiện tiên quyết để Nhà nước chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang mô hình điều hành phát triển.
Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/6/2024 của Bộ Chính trị được ban hành đúng vào thời điểm chuyển tiếp có tính bản lề của nền kinh tế Việt Nam, khi đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ và chuyển đổi số không chỉ là phương tiện hỗ trợ mà đã trở thành động lực chính của tăng trưởng. Với định hướng đột phá thể chế cho phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Nghị quyết 57 không chỉ đặt ra những mục tiêu dài hạn, mà còn định vị lại vai trò của khu vực công trong hệ sinh thái số quốc gia.
Tuy nhiên, chuyển đổi số khu vực công không đơn thuần là bài toán công nghệ hay kỹ thuật hạ tầng. Thực chất, đây là vấn đề kinh tế - tổ chức ở cấp quốc gia, liên quan trực tiếp đến hiệu quả phân bổ ngân sách, năng suất vận hành của bộ máy hành chính và đặc biệt là năng lực kiến tạo và điều tiết thị trường của Nhà nước.
Đâu là thách thức lớn nhất trong chuyển đổi số khu vực công?
Dẫn chứng thành công từ các mô hình tại Estonia, Singapore, và Hàn Quốc, ông Nguyễn Hữu Thái Hòa - Phó Viện Trưởng Viện Trí Việt IVM - VUSTA (Bộ Khoa học và Công nghệ), Chủ tịch VDIC, Trung tâm Thông tin Truyền thông số Việt Nam của Hội Truyền Thông Số (VDCA) cho rằng Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quản lý Nhà nước.
Phó Viện Trưởng Viện Trí Việt Nguyễn Thái Hòa cho rằng, chuyển đổi số trong khu vực công đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn lực. Trong đó, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ tại các cơ quan Nhà nước còn nhiều lạc hậu. Nhiều nơi vẫn sử dụng các hệ thống công nghệ cũ, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc tích hợp các giải pháp số hóa mới, như các hệ thống lưu trữ dữ liệu riêng lẻ, không tương thích, làm chậm quá trình chia sẻ thông tin.
Đồng thời, ngân sách dành cho chuyển đổi số thường bị giới hạn, đặc biệt ở các địa phương hoặc cơ quan cấp cơ sở. Việc triển khai hạ tầng như trung tâm dữ liệu, mạng lưới 5G, hoặc phần mềm quản lý đòi hỏi chi phí lớn, nhưng nguồn lực tài chính thường không đủ. Khu vực công thường gặp khó khăn trong việc thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ do mức lương không cạnh tranh so với khu vực tư nhân. Các chuyên gia về trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, hoặc phân tích dữ liệu thường chọn làm việc cho các công ty công nghệ lớn.
“Việc thiếu một kiến trúc công nghệ thống nhất giữa các cơ quan dẫn đến khó khăn trong việc kết nối dữ liệu, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu dân cư, thuế, hoặc y tế. Đội ngũ cán bộ, công chức thường thiếu kỹ năng sử dụng các công cụ số hóa, đặc biệt ở các khu vực nông thôn hoặc các cơ quan nhỏ. Việc đào tạo lại nhân lực đòi hỏi thời gian và nguồn lực lớn. Trong khi đó, một bộ phận cán bộ, công chức có tâm lý e ngại hoặc không sẵn sàng thích nghi với các quy trình số hóa mới, do sợ mất việc hoặc không quen với công nghệ”, ông Hòa nêu khó khăn thực tế.
Ông Hòa cũng đặc biệt lưu ý vấn đề nguy cơ phát sinh khi thực hiện chuyển số là tấn công mạng, đặc biệt khi các cơ quan Nhà nước lưu trữ dữ liệu nhạy cảm như thông tin công dân, tài chính, hoặc y tế. Trong khi, hệ thống pháp luật và quy định về quản lý dữ liệu, bảo mật thông tin, hoặc dịch vụ công trực tuyến thường chưa theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ, gây cản trở trong việc triển khai.

Theo Phó Viện Trưởng Viện Trí Việt, khi xác định được khó khăn và có giải pháp khắc phục, thực hiện chuyển đổi số mang sẽ lại nhiều cơ hội to lớn cho khu vực công, giúp cải thiện hiệu quả quản lý và nâng cao chất lượng phục vụ người dân. Các công cụ như hệ thống quản lý văn bản điện tử, chữ ký số, hoặc quy trình phê duyệt trực tuyến giúp giảm thời gian xử lý công việc, cho phép người dân nộp hồ sơ mà không cần đến cơ quan hành chính.
“Thực hiện chuyển đổi số để cải thiện được chất lượng dịch vụ công trực tuyến và cung cấp các dịch vụ công ở mức độ 3 và 4 (theo mô hình của Việt Nam), sẽ giúp người dân và doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính mọi lúc, mọi nơi. Từ đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép xây dựng, đến nộp thuế trực tuyến... Tiến trình tiếp theo của chuyển đổi số sẽ là hướng tới cá nhân hóa dịch vụ, với dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) có thể được sử dụng để phân tích nhu cầu của người dân, từ đó cung cấp dịch vụ phù hợp hơn, như gợi ý chính sách hỗ trợ doanh nghiệp dựa trên dữ liệu kinh tế”, ông Hòa nói.
Theo các chuyên gia, chuyển đổi số khu vực công sẽ khó tạo ra đột phá thực chất nếu chỉ được nhìn nhận như một nhiệm vụ công nghệ đơn thuần. Thực tiễn trong và ngoài nước đã chứng minh: chỉ khi chuyển đổi số được tích hợp vào quá trình cải cách kinh tế - thể chế, được đo lường bằng hiệu quả phân bổ nguồn lực, năng suất khu vực công và tác động lan tỏa tới thị trường, thì mới có thể phát huy vai trò là một “nền tảng tăng trưởng mới”. Đây cũng chính là tinh thần cốt lõi mà Nghị quyết 57 đã xác lập - chuyển đổi số không chỉ là mục tiêu, mà còn là phương thức để đổi mới mô hình phát triển quốc gia.
Theo thông báo số 56/TB-VPCP ngày 23/02/2025 kết luận Phiên họp tổng kết hoạt động Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Đề án 06 năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2025 thì chủ đề chuyển đổi số năm 2025 là: "Chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, toàn trình để tăng tốc, bứt phá phát triển kinh tế số", trong đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nêu gương đi đầu, tiên phong trong nhận thức, đổi mới tư duy, phương pháp luận về chuyển đổi số; chỉ đạo quyết liệt những nhiệm vụ chậm tiến độ, tháo gỡ những khó khăn, điểm nghẽn theo nguyên tắc "lãnh đạo từ trên xuống, nhưng tổ chức thực hiện, tháo gỡ vướng mắc phải từ dưới lên". Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về chuyển đổi số và Đề án 06 bằng nhiều hình thức.
Đồng thời, khẩn trương ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị trong tháng 02 năm 2025, đảm bảo "rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ kết quả, rõ trách nhiệm" để đánh giá, đo lường, kiểm tra, giám sát; Hoàn thành xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, nhất là cơ sở dữ liệu về đất đai; nghiên cứu, xây dựng đề án ứng dụng internet vạn vật (IoT) trong một số ngành, lĩnh vực, như: sản xuất, thương mại, năng lượng, nông nghiệp thông minh, giao thông thông minh, y tế thông minh; rà soát, đánh giá, nghiên cứu phương án triển khai trung tâm giám sát, điều hành thông minh dựa trên dữ liệu, kết nối với Trung tâm điều hành của Chính phủ bảo đảm thiết thực, hiệu quả, theo đúng quy định của pháp luật.
Chuyển trạng thái cung cấp dịch vụ công từ "xin - cho" sang trạng thái "chủ động - phục vụ"; đẩy mạnh xóa bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến toàn trình hướng tới dịch vụ số cá nhân hóa, không phụ thuộc địa giới hành chính. Phấn đấu đến hết năm 2025, 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến toàn trình, 80% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến, 40% dân số trưởng thành sử dụng dịch vụ công trực tuyến.
Đến ngày 30/6, tất cả lãnh đạo, cán bộ, công chức phải xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng
Hết tháng 6 năm 2025, 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được gắn định danh cá nhân.
Đến ngày 30 tháng 6 năm 2025, tất cả lãnh đạo, cán bộ, công chức các bộ, ngành, địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) phải xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng và sử dụng chữ ký số để giải quyết công việc.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo và tổ chức thực hiện phân cấp, ủy quyền trong giải quyết thủ tục hành chính, áp dụng chính sách thu phí không đồng để thu hút người dân thực hiện dịch vụ công trực tuyến như mô hình thành phố Hà Nội đã triển khai; phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Công an số hóa dữ liệu hộ tịch và đồng bộ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để làm sạch, phục vụ cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hoàn thành trước ngày 31 tháng 3 năm 2025; phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường số hóa dữ liệu đất đai trên địa bàn, hoàn thành trước ngày 30 tháng 6 năm 2025.