Vận hành linh hoạt hồ chứa để bảo đảm nguồn điện trong các tháng cao điểm mùa nóng 2022
Tài nguyên và phát triển - Ngày đăng : 00:30, 19/05/2022
Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) dự báo, trong các tháng cao điểm từ tháng 5-8/2022, xuất hiện nắng nóng tại khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ, dự báo có khả năng xuất hiện tương đương với TBNN, nhiệt độ phổ biến ở mức xấp xỉ TBNN, riêng tháng 7-8/2022 ở khu vực Trung Trung Bộ cao hơn từ 0,5-1,0oC. Vì vậy, vào các thời điểm này nhu cầu sử dụng điện tăng cao.
Trong khi đó, cơ cấu về sản lượng nguồn điện quốc gia hiện nay thì nhiệt điện than chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm 46%, thủy điện chiếm 30%, còn lại là các loại hình khác như tuabin khí, năng lượng tái tạo, nhập khẩu,… chiếm 24%. Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hiện do tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp làm đứt gãy nguồn cung nhiên liệu làm thiếu hụt nhiên liệu, khiến cho các nhà máy không đảm bảo phát đủ công suất cũng như sản lượng đáp ứng cho hệ thống theo đúng kế hoạch, đặc biệt không đủ công suất khả dụng để đáp ứng phụ tải vào cao điểm chiều, tối.
Điện mặt trời chỉ phát được vào ban ngày, công suất phát cao nhất rơi vào thấp điểm trưa của phụ tải hệ thống
Dự kiến thời gian tới, hệ thống điện Quốc gia cũng như hệ thống điện miền Bắc tiếp tục gặp khó khăn về thiếu hụt công suất vì nhu cầu sử dụng điện có xu hướng tăng cao sau khi Chính phủ thực hiện các giải pháp thích ứng Covid trong tình hình mới. Tính đến hết quý I/2022, tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống tăng 7,5% so với cùng kỳ 2021, dự kiến các tháng còn lại và cả năm 2022 sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 8,73%.
Theo dự kiến thì nguy cơ thiếu hụt công suất đỉnh hệ thống điện miền Bắc trong các tháng cao điểm nắng nóng mùa khô sắp tới lên tới 1.300-2.500 MW, tùy thuộc vào tình hình tiêu thụ điện thực tế. Ngoài ra, khu vực miền Bắc còn có nguy cơ thiếu cục bộ do nghẽn mạch truyền tải từ khu vực miền Trung, miền Nam ra miền Bắc. Đồng thời, các nhà máy thủy điện lớn bị suy giảm công suất khi mực nước hạ thấp do việc phải đáp ứng duy trì lưu lượng xả về hạ du và phải điều chỉnh biểu đồ huy động tránh phát vào các giờ điện mặt trời có công suất phát cao (từ 09 giờ sáng đến 14 giờ chiều).
Mặt khác, với đặc điểm của nguồn năng lượng tái tạo là phát điện phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nhiên liệu sơ cấp (như nhà máy điện mặt trời chỉ phát được vào ban ngày, công suất phát cao nhất rơi vào thấp điểm trưa của phụ tải hệ thống) nên để tận dụng khai thác các nguồn điện năng lượng tái tạo, các nguồn điện truyền thống đã phải vận hành linh hoạt, điều chỉnh phù hợp nhằm đảm bảo cân bằng nguồn tải. Tuy nhiên, do tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo phát vào thấp điểm trưa (11-12h) trong các ngày làm việc bình thường và nhu cầu phụ tải tăng cao hơn trong các dịp nghỉ Lễ, Tết nên các nguồn điện truyền thống hầu như phải ngừng, giảm phát trong khoảng thời gian này.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) vừa có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc đề xuất giải pháp vận hành linh hoạt các hồ chứa trong Quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông các tháng cuối năm 2022. Một điểm đáng chú ý trong báo cáo của Bộ này là những dự báo về sự thiếu hụt dung tích nước tại các hồ chứa thủy điện.
Việc thiếu hụt dòng chảy trên các lưu vực sông có nguy cơ làm giảm khả năng đảm bảo nhu cầu sử dụng nước phía hạ du các hồ chứa lớn. (Ảnh minh họa)
Cụ thể, theo Bộ TN&MT, tổng dung tích các hồ có thể điều tiết cấp nước đến cuối mùa cạn năm 2022 là khoảng 23,8 tỷ m3, trong đó riêng các hồ khu vực miền Bắc (lưu vực sông Hồng) là 13,8 tỷ m3. Tuy nhiên, dự báo trong các tháng còn lại của mùa cạn năm 2022, về tổng thể, lượng mưa cũng như lượng dòng chảy ở các lưu vực sông thấp hơn trung bình nhiều năm (TBNN) từ 10-40% tùy từng vùng.
Riêng khu vực Bắc Bộ, lượng dòng chảy các sông thiếu hụt từ 10-20%, khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên, lượng dòng chảy trên các sông phổ biến thiếu hụt từ 10- 40%, một số sông thiếu hụt trên 40% so với TBNN. Còn các sông ở Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi và khu vực Nam Tây Nguyên cao hơn TBNN cùng kỳ từ 20-30%.
Vì thế, tổng lượng nước đến các hồ thủy điện vừa và lớn thuộc quy trình liên hồ dự báo thiếu hụt từ 5-35%, tùy từng khu vực. Trong đó, các hồ thuộc lưu vực sông khu vực miền Bắc, thiếu hụt 10-20% (lưu vực sông Đà); lưu vực sông Hương thiếu hụt từ 12-28%; lưu vực sông Ba thiếu hụt 15-35%; lưu vực sông Sê San thiếu hụt từ 5-20%; lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn thiếu hụt từ 5-30%, lưu vực sông Trà Khúc thiếu hụt từ 13-16% so với TBNN.
Các lưu vực sông còn lại có tổng lượng dòng chảy đến các hồ xấp xỉ TBNN (lưu vực sông Đồng Nai, lưu vực sông Cả). Việc thiếu hụt dòng chảy trên các lưu vực sông có nguy cơ làm giảm khả năng đảm bảo nhu cầu sử dụng nước phía hạ du các hồ chứa lớn.
Minh Trang