Chuyên đề: Túi nilon – từ gánh nặng môi trường đến giải pháp sinh học xanh

Emagazines - Ngày đăng : 08:32, 01/10/2025

Tiện lợi, rẻ tiền, dễ sử dụng – túi nilon từng được coi là “cứu cánh” trong tiêu dùng hiện đại. Thế nhưng, sau vài thập kỷ tồn tại, túi nilon đã trở thành gánh nặng môi trường toàn cầu. Tại Việt Nam, tình trạng sử dụng túi nilon một lần vẫn ở mức phổ biến, gây áp lực lớn cho hệ sinh thái và công tác quản lý rác thải, đặt ra yêu cầu cấp bách về thay đổi thói quen và tìm giải pháp thay thế bền vững.
Emagazines

Chuyên đề: Túi nilon – từ gánh nặng môi trường đến giải pháp sinh học xanh

Thu Trinh 01/10/2025 08:32

Tiện lợi, rẻ tiền, dễ sử dụng – túi nilon từng được coi là “cứu cánh” trong tiêu dùng hiện đại. Thế nhưng, sau vài thập kỷ tồn tại, túi nilon đã trở thành gánh nặng môi trường toàn cầu. Tại Việt Nam, tình trạng sử dụng túi nilon một lần vẫn ở mức phổ biến, gây áp lực lớn cho hệ sinh thái và công tác quản lý rác thải, đặt ra yêu cầu cấp bách về thay đổi thói quen và tìm giải pháp thay thế bền vững.

tui-nilon.jpg

Trong bối cảnh Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có mức tiêu thụ túi nilon cao hàng đầu thế giới, trong khi tỷ lệ thu gom, tái chế lại rất thấp, vấn đề này ngày càng trở nên cấp bách. Túi nilon vốn được coi là biểu tượng của sự tiện lợi, nhưng chính sự “tiện lợi” đó đã biến nó thành gánh nặng môi trường kéo dài hàng trăm năm mới phân hủy.

Không chỉ dừng ở câu chuyện rác thải, túi nilon còn đặt ra nhiều thách thức đối với mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam đã cam kết, nhất là khi đất nước đang hướng tới Net Zero vào năm 2050. Việc kiểm soát nhựa dùng một lần, trong đó có túi nilon, vì thế không chỉ là trách nhiệm môi trường mà còn gắn với uy tín quốc gia và hội nhập quốc tế.

anh-thump.jpg

Chính từ những vấn đề nhức nhối này, với chức năng là một tạp chí chuyên ngành về môi trường, Tạp chí Môi trường và Cuộc sống nhận thấy việc quyết định triển khai tuyến bài “Túi nilon – từ gánh nặng môi trường đến giải pháp sinh học xanh” là cần thiết và cấp bách. Tuyến bài sẽ đi sâu vào các vấn đề sau: Thực trạng sử dụng túi nilon tại Việt Nam, từ chợ truyền thống đến hệ thống bán lẻ hiện đại; Những hệ lụy môi trường – kinh tế – xã hội từ thói quen sử dụng một lần rồi bỏ; Nỗ lực chuyển đổi của doanh nghiệp, chính quyền và cộng đồng trong việc giảm thiểu, thay thế túi nilon; Giải pháp hướng tới một tương lai “không túi nilon”, nơi các sản phẩm sinh học xanh dần thay thế hoàn toàn.

Đặt vấn đề như vậy không chỉ nhằm phản ánh thực trạng, mà còn để khơi gợi sự chung tay của toàn xã hội, từ nhà quản lý, doanh nghiệp đến mỗi người dân trong cuộc chiến chống rác thải nhựa, bảo vệ hệ sinh thái và xây dựng lối sống bền vững.

Bài 1: Thực trạng sử dụng túi nilon một lần ở Việt Nam

    Mỗi ngày, hàng triệu chiếc túi nilon dùng một lần được phát miễn phí ở các chợ dân sinh, cửa hàng tạp hóa. Thói quen tiêu dùng này tưởng như bình thường, nhưng đang tạo nên một “núi rác thải nhựa” khổng lồ, len lỏi từ bãi rác, kênh rạch đến tận biển khơi, đe dọa sức khỏe con người và sự cân bằng sinh thái.

    “Cơn lũ” túi nilon trong đời sống hàng ngày

    Một buổi sáng ở chợ dân sinh tại Hà Nội, người bán hàng không ngần ngại nhét từng bó rau, miếng thịt, cân cá vào nhiều lớp túi nilon. Người mua xách về nhà một “mớ” túi mà chỉ sau một lần dùng, phần lớn sẽ bị vứt bỏ. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở chợ truyền thống mà còn ở các quán ăn vỉa hè, cửa hàng tạp hóa và thậm chí trong cả những chuỗi siêu thị hiện đại.

    8.jpg

    Là một tiểu thương bán rau củ quả tại một khu chợ thuộc phường Từ Liêm, Hà Nội, chị Nguyễn Thị Hiền cho biết, một buổi chợ chị sử dụng hết khoảng 3 - 4 kg túi nilon (các loại túi 1kg, 2kg, 5kg).

    "Mỗi cân túi tùy độ dày mỏng dao động khoảng trên dưới 50 chiếc, tính trung bình tôi cần khoảng 150 - 200 túi một ngày. Những ngày lễ, Tết khách mua hàng nhiều thì số lượng túi nilon sử dụng còn nhiều hơn. Các loại túi màu (xanh, đỏ, vàng) có giá giao động từ 33 đến 40 ngàn đồng. Riêng túi nilon màu trắng là đắt nhất, có giá khoảng 50 ngàn đồng. Tính ra mỗi tháng tôi tốn khoảng 2-3 triệu đồng tiền túi bán hàng", chị Hiền cho biết.

    Với ưu điểm bền, chắc, tiện dụng và giá thành thấp, túi nilon, đặc biệt là các loại túi siêu mỏng được sử dụng phổ biến và hầu như có mặt ở mọi nơi từ cửa hàng bán rau, dưa cà muối đến các tạp hóa, cửa hàng đa tiện ích. Ngay cả những nơi bán cháo dinh dưỡng dành cho trẻ em, túi nilon, cốc nhựa 1 lần cũng là mặt hàng khá quen thuộc. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của nó đến môi trường và sức khoẻ là rất lớn nhưng hầu như chúng ta không ai chú ý đến.

    Vì bán đồ ăn sáng đa phần là bánh mì, cháo, trứng nên chị Thủy ở chợ Nguyễn Đổng Chi (phường Từ Liêm, Hà Nội) phải nhập các loại túi nilon màu trắng dầy dặn, song giá mua cũng chỉ giao động từ 55 đến 60 ngàn đồng. Những chiếc túi nilon màu trắng nhỏ xinh được dùng để đựng cháo nóng, đủ bữa sáng cho trẻ con, vừa tiện lợi lại không phải lo rửa bát, đĩa, được các bà mẹ trẻ ưa dùng.

    12.jpg

    Quả thực, chỉ đứng quan sát một lúc tại quầy hàng của chị Hiền có thể thấy người mua nào cũng sử dụng túi nilon đựng thực phẩm, rau, củ. Nhiều người yêu cầu đựng mỗi loại rau, quả một túi riêng. Có người xin thêm hai ba chiếc túi để xách hàng các loại quả nặng như cam, bưởi vì sợ quai túi không chắc.

    Chỉ vào dàn túi đựng thực phẩm treo trên tay lái xe máy của mình, bà Hòa cho biết ngày trước cũng hay mang làn đi chợ nhưng từ ngày mua hàng được cho “tặng” luôn cả túi nilon đựng, thấy tiện nên chỉ cầm ví đi thôi. Nhiều lúc còn chỉ cầm mỗi chiếc điện thoại là có thể mua được đủ thứ.

    Theo bà Trần Thị Mai (chủ quầy bán tạp hóa ở chợ Hà Đông), các loại túi màu xanh lá cây, màu xanh lam, màu vàng, màu đỏ có giá khoảng 30.000 - 40.000 đồng/kg. Loại màu trắng trong là đắt nhất, có giá khoảng 50.000 đồng/kg. Mỗi tháng bà tốn cả triệu đồng để mua túi nilon phục vụ cho việc buôn bán.

    Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), mỗi năm, tại Việt Nam, có khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa thải ra môi trường trong đó 0,28 triệu đến 0,73 triệu tấn bị thải ra biển. Riêng tại Hà Nội và TP.HCM, trung bình mỗi ngày phát sinh 80 tấn rác thải nhựa, trong đó phần lớn là túi nilon khó phân hủy và bao bì nhựa dùng một lần. Tính ra, mỗi hộ gia đình thành thị sử dụng từ 5–7 túi nilon/ngày. Nếu nhân lên với hàng triệu hộ, lượng túi nilon thải ra môi trường mỗi năm lên đến con số hàng tỷ chiếc.

    14.jpg

    Điều đáng nói là việc xử lý và tái chế rác thải nhựa còn nhiều hạn chế khi có đến 90% rác thải nhựa được xử lý theo cách chôn, lấp, đốt và chỉ có 10% là được tái chế.

    Một nghiên cứu của Liên Hợp Quốc năm 2023 cho biết: Việt Nam nằm trong nhóm 5 quốc gia thải nhiều rác thải nhựa ra biển nhất thế giới. Đặc biệt, do đặc tính nhẹ, khó thu gom, túi nilon rất dễ bị gió cuốn ra sông, kênh rạch, rồi trôi ra đại dương, góp phần tạo nên những “đảo rác” khổng lồ.

    Không chỉ gây áp lực cho môi trường đô thị, túi nilon còn len lỏi đến cả những vùng sâu, vùng xa. Tại nhiều bản làng miền núi, nơi chưa có hệ thống thu gom rác thải, túi nilon bị vứt bừa bãi trên nương rẫy, bờ suối, rồi bị đốt thủ công, thải khí độc hại trực tiếp ra không khí.

    Túi nilon – “kẻ hủy diệt thầm lặng” của môi trường và sức khỏe

    Túi nilon gây tác hại ngay từ khâu sản xuất bởi vì việc sản xuất túi nilon phải sử dụng nguyên liệu đầu vào là dầu mỏ và khí đốt và các chất phụ gia chủ yếu được sử dụng là chất hoá dẻo, kim loại nặng, phẩm màu - những chất cực kỳ nguy hiểm tới sức khoẻ và môi trường sống của con người. Do đó trong quá trình sản xuất nó sẽ tạo ra khí CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính, thúc đẩy biến đổi khí hậu toàn cầu.

    9.jpg

    Theo các nhà khoa học, túi nilon được làm từ những chất khó phân huỷ, khi thải ra môi trường phải mất hơn 500 năm mới phân huỷ hoàn toàn. Sự tồn tại của nó trong môi trường sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất và nước bởi túi nilon lẫn vào đất sẽ ngăn cản ôxi đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất bạc màu, không tơi xốp, kém chất dinh dưỡng, từ đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng. Nghiêm trọng hơn, các nhà khoa học còn phát hiện ra rằng đất và nước bị ô nhiễm bởi túi nilon sẽ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới sức khoẻ con người. Thực tế nhiều loại túi nilon được làm từ dầu mỏ nguyên chất khi chôn lấp sẽ ảnh hưởng tới môi trường đất và nước còn đốt sẽ tạo ra khí thải có chất độc dioxin và Fura gây ngộ độc, ảnh hưởng tuyến nội tiết, gây ung thư, giảm khả năng miễn dịch, rối loạn chức năng tiêu hoá và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ,…Đặc biệt trong một số loại túi nilon có lẫn lưu huỳnh, dầu hoả nguyên chất khi đốt cháy gặp hơi nước sẽ tạo thành axít Sunfuric dưới dạng các cơn mưa axit rất có hại cho phổi.

    Túi nilon kẹt sâu trong cống rãnh, kênh rạch còn làm tắc nghẽn gây ứ đọng nước thải và ngập úng. Các điểm ứ đọng nước thải sẽ là nơi sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh, bên cạnh đó túi nilon còn làm mất mỹ quan tới cảnh quan.

    Một mối nguy khác là vi nhựa. Trong quá trình phân rã, túi nilon vỡ thành các hạt nhựa siêu nhỏ, len lỏi vào đất, nguồn nước và sinh vật. Nhiều nghiên cứu quốc tế cho thấy vi nhựa đã được tìm thấy trong muối ăn, trong ruột hải sản, thậm chí cả trong máu và nhau thai của con người. Điều này đồng nghĩa, chúng ta đang vô tình tiêu thụ “chất độc nhựa” hằng ngày.

    13.jpg

    Theo TS Hoàng Dương Tùng, Nguyên Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Môi trường, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, các sản phẩm nhựa, nhất là hộp xốt đã được chứng minh có chứa chất độc nguy hại có thể làm tổn thương não, gây viêm gan, rối loạn nội tiết, gây vô sinh và ung thư. Về nguyên tắc, những món đồ này đều chỉ được dùng 1 lần và không được dùng cho đồ ăn nóng. Khi túi nilon, hộp nhựa hay màng bọc thực phẩm đựng cơm canh, thực phẩm nóng ở khoảng 80 độ C, có thể khiến các chất phụ gia như chất hóa dẻo, phẩm màu, chì, cadimi dễ dàng thôi nhiễm vào thức ăn, sau đó hấp thụ vào cơ thể người qua quá trình sử dụng.

    Các chuyên gia cảnh báo, nếu không thay đổi thói quen sử dụng, đến năm 2050, lượng rác thải nhựa trên đại dương có thể vượt qua tổng số cá. Với bờ biển dài hơn 3.200 km, Việt Nam sẽ là quốc gia chịu tác động trực tiếp và nghiêm trọng.

    Trao đổi về vấn đề này, Thạc sỹ, Luật sư Hoàng Thị Hương Giang (Văn phòng luật sư Chính Pháp) cho biết việc sản xuất, sử dụng và xử lý túi nilon khó phân hủy đã được quy định tại Luật bảo vệ môi trường năm 2020 và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 và các văn bản có liên quan khác.

    10.jpg

    Theo khoản 15 Điều 3 Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 quy định chi tiết một số điều của luật bảo vệ môi trường, quy định bao bì nhựa khó phân hủy (hay còn gọi là bao bì Nilon) là bao bì có thành phần chính là polyme có nguồn gốc từ dầu mỏ như nhựa Polyme Etylen (PE), Polypropylen (PP), Polyme Styren (PS), Polyme Vinyl Clorua (PVC), Polyethylene Terephthalate (PET) và thường khó phân hủy, lâu phân hủy trong môi trường thải bỏ (môi trường nước, môi trường đất hoặc tại bãi chôn lấp chất thải rắn). Với những thành phần cấu tạo trên, bao bì nilon có tác hại xấu đến môi trường, cụ thể: gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí do chúng tồn tại hàng trăm đến hàng nghìn năm, làm suy giảm dinh dưỡng đất, gây tắc nghẽn hệ thống thoát nước và tạo ra vi nhựa có hại. Chúng còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển, đe dọa đa dạng sinh học và sức khỏe con người khi vi nhựa xâm nhập chuỗi thức ăn và các chất độc hại được giải phóng. Việc xử lý không đúng cách, như đốt, còn phát thải khí độc gây ung thư, trong khi sản xuất chúng tiêu thụ năng lượng và thải ra khí nhà kính.

    “Chính vì những tác hại trên, Luật Bảo vệ môi trường 2020 coi túi nilon khó phân hủy là đối tượng cần kiểm soát chặt chẽ được quy định tại khoản 6, 7 Điều 73”, Luật sư Giang cho biết.

    Theo Luật sư Hoàng Thị Hương Giang, Điều 64 Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 cũng nêu lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa. Theo đó, Nhà nước đặt mục tiêu đến năm 2025 sẽ cơ bản chấm dứt việc sử dụng túi nilon khó phân hủy tại các siêu thị và đến năm 2030 thì tiến tới cấm hoàn toàn loại sản phẩm này.

    Điều 64 Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 quy định về lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa cụ thể như sau:

    (i) Từ 01/01/2026, không sản xuất và nhập khẩu túi ni lông khó phân hủy sinh học có kích thước nhỏ hơn 50 cm x 50 cm và độ dày một lớp màng nhỏ hơn 50 µm, trừ trường hợp sản xuất để xuất khẩu hoặc sản xuất, nhập khẩu để đóng gói sản phẩm, hàng hóa bán ra thị trường;

    (ii) Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học phải thực hiện trách nhiệm tái chế, xử lý theo quy định tại Nghị định này;

    (iii) Giảm dần việc sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa. Sau ngày 31 tháng 12 năm 2030, dừng sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần (trừ sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái Việt Nam), bao bì nhựa khó phân hủy sinh học (gồm túi ni lông khó phân hủy sinh học, hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm) và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa, trừ trường hợp sản xuất để xuất khẩu và trường hợp sản xuất, nhập khẩu bao bì nhựa khó phân hủy sinh học để đóng gói sản phẩm, hàng hóa bán ra thị trường

    (iv) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định và tổ chức triển khai hoạt động quản lý chất thải nhựa; bảo đảm sau năm 2025, không lưu hành và sử dụng sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học (gồm túi ni lông khó phân hủy sinh học, hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm) tại các trung tâm thương mại, siêu thị, khách sạn, khu du lịch, trừ sản phẩm, hàng hóa có bao bì nhựa khó phân hủy sinh học; tổ chức thanh tra, kiểm tra các đơn vị sản xuất sản phẩm nhựa sử dụng một lần và bao bì nhựa khó phân hủy sinh học trên địa bàn Bên cạnh đó, túi nilon còn thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường, nhằm hạn chế sản xuất và tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định 67/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế bảo vệ môi trường, sửa đổi bổ sung bởi Điều 1 Nghị định 69/2012/NĐ-CP.

    11.jpg

    Sản phẩm nhựa sử dụng một lần là gì?

    Theo khoản 14 Điều 3 Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định, sản phẩm nhựa sử dụng một lần là các sản phẩm có thành phần nhựa (trừ sản phẩm gắn kèm không thể thay thế) được thiết kế và đưa ra thị trường với chủ đích để sử dụng một lần trước khi thải bỏ ra môi trường như:

    - Khay, hộp chứa đựng thực phẩm

    - Bát, đũa, ly, cốc, dao, thìa, dĩa, ống hút, dụng cụ ăn uống khác

    Ví dụ: Khay đựng thức ăn nhanh, hộp cơm, bát, đĩa, cốc, ly, ống hút, dao, nĩa, thìa,...v.v.

    ), Polyme Styren (PS), Polyme Vinyl Clorua (PVC), Polyethylene Terephthalate (PET) và thường khó phân hủy, lâu phân hủy trong môi trường thải bỏ (môi trường nước,

    Bao bì nhựa khó phân hủy sinh học là gì?

    Theo khoản 15 Điều 3 Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học là bao bì có thành phần chính là polyme có nguồn gốc từ dầu mỏ như nhựa Polyme Etylen (PE), Polypropylen (PP môi trường đất hoặc tại bãi chôn lấp chất thải rắn).

    Ví dụ: túi nilon siêu thị, túi đựng rác, túi bóng bóng, chai nước uống, chai nước ngọt, chai dầu ăn,...v.v.

    Thu Trinh