Cây đời mãi xanh tươi
Môi trường - Tài nguyên - Ngày đăng : 08:00, 07/11/2025
Cây đời mãi xanh tươi
Việt Nam là đất nước có hình chữ S, bờ biển dài 3.440km, có vị trí địa lý độc đáo và thuận lợi ở biển Đông và Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc nằm trong vành đai gió mùa Đông Nam Á cùng với địa hình đa dạng đồng nghĩa với việc Việt Nam là một trong những đất nước có vốn tài nguyên chịu nhiều thiên tai nhất trên thế giới và phải hứng chịu nhiều loại hình thiên tai khác nhau như bão, áp thấp nhiệt đới và cháy rừng, đặc biệt là lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở đất…
Kịch bản biến đổi khí hậu dự báo, nếu mực nước biển dâng 1 mét, khoảng 39% diện tích ĐBSCL sẽ bị ngập, đe dọa đến hơn 18 triệu dân và làm mất khoảng 50% diện tích đất canh tác nông nghiệp. Thực tế, tình hình thiên tai diễn biến rất phức tạp, với lũ lụt ở mức lịch sử, gây thiệt hại rất nghiêm trọng về đất đai và tài sản, tác động ngày càng cực đoan tới tăng trưởng kinh tế khi thiên tai năm 2024 làm thiệt hại khoảng 0,4% GDP thì năm 2025 ước tính ít nhất khoảng 2%. Các thiệt hại trên chưa kể đến thất thoát về con người và chi phí xử lý hậu quả sau thiên tai như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường….

Chính vì vậy, ở Việt Nam, một trong những nội dung quan trọng nhất của việc quản trị bền vững vốn tài nguyên là tăng cường bảo vệ môi trường tự nhiên, trong đó đặc biệt là phòng chống và ứng phó với thiên tai. Theo các chuyên gia về phát triển bền vững, bên cạnh nguyên nhân khách quan, có thể điểm qua một số nguyên nhân chủ quan cơ bản làm nghiêm trọng thêm hậu quả của thiên tai:
1. Nhận thức của cộng đồng cũng như năng lực dự báo và truyền thông của các cơ quan quản lý về ứng phó với thời tiết cực đoan còn hạn chế.
2. Nguồn lực ứng phó còn hạn chế vì nhiều công trình công trình thủy lợi, đê điều, hồ chứa và hệ thống phòng, chống sạt lở được xây dựng từ lâu đã xuống cấp, hiệu quả giảm, nguy cơ mất an toàn hồ đập tăng cao... không được tu sửa hoặc xây dựng bổ sung một cách đồng bộ và hiệu quả. Ngoài ra, khi xảy ra thiên tai, nguồn lực ứng phó còn chưa chuyên nghiệp, đơn giản và không đồng bộ…
3. Quy hoạch sử dụng đất, cây xanh nói chung và thủy lợi, cấp thoát nước nói riêng không đồng bộ, tầm nhìn liên vùng hạn chế và thiếu kiểm tra. Quá trình đô thị hoá nhanh chóng cùng với các dự án như bất động sản, giao thông, thủy điện, năng lượng tái tạo, khai thác khoáng sản… làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên và thay đổi động lực hệ sinh thái như đất đai, mặt nước, rừng, không gian…, dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác thủy lợi, cấp thoát nước và hậu quả là người dân và sinh kế dễ bị tổn thương hơn trước các thảm họa thiên nhiên, cũng như tạo ra những rủi ro mới.
Ví dụ, việc san lấp và xâm lấn ao, hồ, sông ngòi làm gia tăng diện tích bề mặt không thấm nước (bê tông hóa) có thể làm tăng nguy cơ một trận mưa bình thường có thể dẫn đến lũ lụt thảm khốc. Hơn nữa, nạn khai thác rừng thiếu kiểm soát dẫn đến thu hẹp diện tích rừng tự nhiên với khả năng chống lũ, giữ nước tốt vì có nhiều tầng, nhiều loại cây, hệ rễ sâu và rộng đan chặt với nhau…
Hiện nay, Luật Phòng, chống thiên tai 2013 đã, đang được bổ sung và sửa đổi theo hướng tích cực. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) đã báo cáo Chính phủ và đề xuất nguồn vốn khoảng 85.000 tỷ đồng cho giai đoạn 2026-2030, tiếp tục đầu tư nâng cấp hệ thống đê điều, hồ chứa, kênh mương phục vụ sản xuất. Ngoài ra, Bộ cũng đã tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 02 về hỗ trợ thiệt hại sau thiên tai.
Điểm mới của nghị định này là mức hỗ trợ được nâng lên từ 1 đến 2 lần, thậm chí 3 lần so với quy định trước đây, đồng thời bỏ bớt nhiều thủ tục hành chính rườm rà, giúp bà con dễ dàng tiếp cận hơn. Ngoài ra, Bộ xác định phải làm thật tốt công tác dự báo, cảnh báo sớm, giúp người dân và chính quyền địa phương mới hai cấp chủ động hơn trong ứng phó, giảm thiểu tối đa thiệt hại về người và tài sản…
Thực tế cho thấy thiên tai là hiện tượng toàn cầu, xảy ra bất ngờ, ở nhiều nơi, nhiều thời điểm khác nhau, nên phòng chống thiên tai đầy đủ, đồng bộ cần nguồn lực rất lớn và thời gian dài hạn. Hoàn cảnh thiên tai ở nước ta đang xảy ra hàng năm rất nghiêm trọng cùng với biến đổi khí hậu phức tạp, do vậy cần chủ động huy động tổng hợp 5 nguồn lực cơ bản:
1. Con người: Nâng cao nhận thức của toàn dân về bảo vệ tài nguyên và loại trừ nhận thức phổ biến rằng tài nguyên thiên nhiên là vô hạn và miễn phí. Với đặc thù nghiêm trọng của thiên tai mang tính thường niên và tác động ngày càng tăng của biến đổi khí hậu, cần phải coi công cuộc phòng chống thiên tai là cuộc chiến trong thời bình và là một trong những cạm bẫy lớn nhất gây ra khoảng cách giàu nghèo và thu nhập trung bình. Bên cạnh đó, cần nâng cao kỹ năng phòng chống thiên tai của người dân, doanh nhân và công chức đặc biệt là ở những vùng trọng điểm.
2. Thể chế: Luật Phòng, chống thiên tai 2013 (Điều 6) quy định quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong công tác phòng chống thiên tai. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh hơn sự chủ động của quân đội và các lực lượng vũ trang trong hoạt động ứng phó và khắc phục thiên tai. Chiến lược phát triển các sản phẩm lưỡng dụng cần được thể hiện triệt để trong lĩnh vực này vì thiên tai là sự mô phỏng tối ưu cho các tác chiến quân sự trong thời bình. Nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo xây dựng thể chế cung cấp các nguồn lực như phát triển thị trường cho các sản phẩm, phương tiện chuyên nghiệp lưỡng dụng cho quân sự và phòng chống thiên tài cũng như cơ chế vận hành quỹ tài chính liên quan. Ngoài ra, cần có kế hoạch ứng phó, diễn tập thường xuyên hơn (đặc biệt trước mùa gió bão) để các lực lượng vũ trang tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền và tổ chức dân sự trong nước cũng như quốc tế.
3. Sản phẩm: Kết hợp các sản phẩm “cứng” và sản phẩm “mềm” là cần thiết để phòng chống lũ lụt hiệu quả, vì chúng giải quyết các khía cạnh rủi ro khác nhau. Sản phẩm "cứng" (hạ tầng kỹ thuật như đê, đập, hồ chứa, kênh xả lũ…), chặn hoặc kiểm soát nước một cách vật lý, trong khi các sản phẩm "mềm" và phi công trình (sử dụng đất) quản lý rủi ro bằng cách kiểm soát cách con người và tài sản tương tác với các khu vực dễ bị lũ lụt. Cần có các sản phẩm “mềm” quy hoạch hệ thống thủy lợi liên vùng, liên lưu vực, gắn chặt với quy hoạch sử dụng đất, đô thị và phòng, chống thiên tai, đặc biệt chú trọng các khu vực xung yếu, trọng điểm lũ lụt. Cần sử dụng các sản phẩm công nghệ cao của thời đại công nghệ số và hợp tác khoa học quốc tế để nâng cao chất lượng các sản phẩm dự báo và truyền thông về thời tiết. Trước mắt, các sản phẩm “mềm” như văn kiện, chiến lược, kế hoạch của Đàng, Chính phủ… theo truyền thống chỉ có tiêu đề 2 trụ cột “kinh tế” và “xã hội”, nên chăng bổ sung thêm trụ cột “môi trường” để đảm bảo toàn xã hội cùng hướng tới 3 trụ cột chính của sự phát triển bền vững.
4. Tài chính: Bên cạnh việc huy động và cung cấp tài chính cho các hoạt động phòng chống thiên tài nói chung, Chính phủ có thể sử dụng các đòn bẩy tài chính để cơ cấu chuyển đổi ngành nghề cho thuyền nhân đi biển không đủ điều kiện và di chuyển người dân ra khỏi khu vực luôn xảy ra thiên tai nghiêm trọng…Đặc biệt, cần nghiên cứu và triển khai chính sách tài khóa của chính phủ ưu tiên đầu tư phát triển thị trường công nghiệp nhằm phát triển cộng đồng doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm lưỡng dụng một cách hiệu quả phục vụ cho cả cuộc chiến chống thiên tai thời bình cũng như chiến tranh quân sự.
5. Tài nguyên: Tài nguyên cơ bản như đất, khoáng sản, cây xanh, rừng, sông hồ, biển, không gian (bao gồm cả không gian ngầm) sau các mùa bão lũ, cần phải được xác định và đánh giá lại một cách công khai minh bạch thường xuyên nhằm đảm bảo chúng vẫn được khai thác, sử dụng hợp lý, được tích luỹ và không bị cạn kiệt theo quy hoạch tổng thể. Hơn hết, các dự án đầu tư cần có báo cáo đánh giá tác động môi trường sau các mùa bão lũ trong cả quá trình vòng đời của dự án.
Tựu trung, trong bối cảnh đặc thù tự nhiên phức tạp và biến đổi khí hậu khắc nghiệt đang gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cả về kinh tế, xã hội và môi trường ở Việt Nam hiện nay, triển khai và thực thi các nguồn lực kinh tế xã hội sẽ là các giải pháp toàn diện và thiết thực nhất để có thể chủ động phòng chống và ứng phó hiệu quả với thiên tài bão lụt, nước biển dâng….
Việc khai thác, sử dụng và tích luỹ phát triển các nguồn lực không chỉ sự giảm thiểu tối đa thiệt hại của thiên tai mà còn đem lại sự bền vững về kinh tế, niềm tin xã hội và đặc biệt là môi trường để làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế tuần hoàn, các bon thấp cũng như giảm thiểu ô nhiễm tại các đô thị lớn trong quá trình đô thị hoá. Chắc chắn, Văn kiện đại hội Đảng được hoàn thiện cùng với những ý kiến đóng góp tinh hoa của toàn dân sẽ góp phần đảm bảo cho “cây đời mãi xanh tươi” trên mảnh đất chữ S tươi đẹp.
