Quản lý tổng hợp biển và đại dương: Hướng đi chiến lược cho phát triển bền vững
An ninh nguồn nước - Ngày đăng : 19:30, 08/11/2025
Quản lý tổng hợp biển và đại dương: Hướng đi chiến lược cho phát triển bền vững
Trước những thách thức ngày càng lớn đối với môi trường biển toàn cầu, Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện quản lý tổng hợp biển và đại dương, hoàn thiện thể chế, tăng cường khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia mạnh, giàu và bền vững từ biển.
Biển và đại dương là không gian sinh tồn của nhân loại, nhưng hiện đang đối mặt với sức ép chưa từng có từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học và căng thẳng địa chính trị. Trong bối cảnh ấy, việc xây dựng mô hình quản lý tổng hợp biển và đại dương, dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế, trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tương lai bền vững cho “biển xanh” của nhân loại.
Với vị thế địa chính trị đặc biệt, Việt Nam luôn thể hiện vai trò chủ động, có trách nhiệm trong quản trị đại dương toàn cầu. Tại Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ ba tổ chức tại Pháp, Thủ tướng Phạm Minh Chính, đại diện cho các quốc gia ASEAN, đã khẳng định định hướng phát triển kinh tế biển dựa trên khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường, hợp tác vì hòa bình và ổn định khu vực.

Quản lý tổng hợp biển và đại dương không chỉ là công cụ kỹ thuật mà còn là trụ cột chiến lược giúp Việt Nam khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế biển, bảo vệ hệ sinh thái và khẳng định vị thế của một quốc gia biển có trách nhiệm.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hệ thống thể chế phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển ngày càng được hoàn thiện. Các văn bản quan trọng như Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, Nghị quyết 139/2024/QH15 của Quốc hội về Quy hoạch không gian biển quốc gia, hay Nghị quyết 48/NQ-CP của Chính phủ về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Những định hướng này coi quản lý tổng hợp biển và đại dương là phương thức quản trị hiện đại, giúp loại bỏ chồng chéo trong quy hoạch, tăng cường phối hợp giữa các ngành, địa phương, tối ưu hóa nguồn lực và bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
Tuy nhiên, quá trình thực thi vẫn còn tồn tại những khó khăn như chồng lấn quy hoạch, phân mảnh dữ liệu và thiếu cơ chế điều phối thống nhất. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 57-NQ/TW và 59-NQ/TW về phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế đã mở ra hướng đi mới, coi khoa học – công nghệ là động lực then chốt, đổi mới sáng tạo là chìa khóa bứt phá.
Việc sáp nhập, điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh ven biển theo Nghị quyết 18-NQ/TW đã mở rộng không gian quản lý, tạo cơ hội liên kết vùng hiệu quả hơn, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp thiết về năng lực quản trị và chia sẻ dữ liệu. Đây cũng là cơ hội để thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển quy hoạch không gian biển thông minh và xây dựng kinh tế biển xanh.
Hướng tới các cột mốc phát triển lớn – 100 năm thành lập Đảng (2030) và mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam xác định vai trò trung tâm trong điều phối thực hiện các mục tiêu quốc gia về biển mạnh, bền vững và thịnh vượng.
Trong giai đoạn tới, ngành biển Việt Nam tập trung vào bốn nhóm định hướng lớn:
- Hoàn thiện thể chế quản lý tổng hợp biển – xây dựng khung pháp lý minh bạch, hiện đại, nội luật hóa đầy đủ các điều ước quốc tế như UNCLOS 1982 và Hiệp định BBNJ 2025, đảm bảo quản lý dựa trên bằng chứng khoa học.
- Tăng cường cơ chế điều phối và phân cấp quản lý, trong đó chú trọng củng cố vai trò của Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển bền vững kinh tế biển, phát huy cơ chế điều phối liên ngành – liên vùng, gắn với nâng cao năng lực quản lý cho các địa phương ven biển.
- Thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – coi đây là động lực chủ đạo cho kinh tế biển. Tập trung vào các công nghệ chiến lược như khai thác biển sâu, năng lượng tái tạo ngoài khơi, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, hướng tới hình thành phương thức sản xuất số trong kinh tế biển.
- Nâng cao mức độ hội nhập quốc tế, chuyển từ vai trò “tham gia” sang “kiến tạo giá trị”, chủ động đề xuất và đăng cai các sáng kiến, diễn đàn quốc tế lớn về đại dương; đồng thời tăng cường hợp tác, chia sẻ tri thức và nguồn lực giữa các bộ, ngành, địa phương ven biển.
Để hiện thực hóa tầm nhìn phát triển bền vững từ biển, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam kiến nghị sớm hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế giám sát và huy động nguồn lực tài chính xanh cho kinh tế biển; đầu tư hạ tầng dữ liệu không gian biển số hóa, liên thông, thông minh; xây dựng ngoại giao chuyên trách về biển; đồng thời đẩy mạnh bảo tồn đa dạng sinh học biển gắn với phát triển du lịch và kinh tế xanh.
Những nỗ lực này không chỉ góp phần bảo vệ chủ quyền, phát triển bền vững tài nguyên biển, mà còn khẳng định vị thế Việt Nam là quốc gia biển có trách nhiệm, hướng tới tương lai xanh – thịnh vượng – bền vững cho các thế hệ mai sau.
