TP.HCM triển khai loạt giải pháp ứng phó nguy cơ sụt lún nghiêm trọng
Đô thị xanh - Ngày đăng : 11:00, 16/11/2025
TP.HCM triển khai loạt giải pháp ứng phó nguy cơ sụt lún nghiêm trọng
Sụt lún bề mặt đất đang trở thành vấn đề hiện hữu, gây ảnh hưởng nặng nề đến hạ tầng kỹ thuật, công trình dân sinh và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của TP.HCM.
Mới đây, theo Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM cho biết, hiện thành phố đang triển khai nhiều giải pháp dài hạn nhằm kiểm soát và giảm thiểu nguy cơ sụt lún đang diễn biến phức tạp.
Theo Phòng Đo đạc, Bản đồ và Viễn thám (Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM), nguyên nhân sụt lún được xác định xuất phát từ nền địa chất yếu, hoạt động giao thông tải trọng lớn, tác động của các công trình dân dụng và đặc biệt là việc khai thác nước ngầm quá mức trong thời gian dài.

Một số khu vực có tốc độ lún trên 10mm mỗi năm thường nằm trên nền đất yếu, dù không chịu tác động từ xây dựng hay giao thông. Hoạt động giao thông nặng, nhất là trên các tuyến đường sắt đô thị hoặc nơi có lưu lượng xe container lớn, cũng khiến tốc độ lún tăng nhanh. Tác động từ các công trình dân dụng hiện nay giảm bớt nhờ ứng dụng công nghệ móng cọc hiện đại, chủ yếu gây ảnh hưởng tạm thời.
Trong các yếu tố, khai thác nước ngầm được đánh giá là nguyên nhân chính thúc đẩy tình trạng lún nền đất. Việc khai thác vượt ngưỡng, kết hợp với quá trình bê tông hóa khiến khả năng bổ cập nước mưa bị hạn chế, mực nước ngầm suy giảm, dẫn đến sụt lún. Thành phố đã siết chặt cấp phép khai thác và kiểm soát công suất, giúp tốc độ lún giảm dần và một số khu vực bắt đầu ổn định.
Kết quả quan trắc của Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM kết hợp với dữ liệu INSAR vi phân từ năm 2010 cho phép thành phố xây dựng bản đồ phân vùng lún đất và bố trí hai trạm quan trắc cố định tại Khu Công nghiệp Tân Tạo và xã Bình Hưng. Đến năm 2019, sụt lún vẫn tiếp diễn, mức lún lớn nhất ghi nhận đạt 31 mm/năm. Diện tích vùng lún nhanh (>15 mm/năm) là 14.775ha, vùng lún tương đối nhanh (10–15 mm/năm) là 22.331 ha, và vùng lún trung bình (5–10 mm/năm) lên đến 29.560 ha.
Báo cáo của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) cho thấy tình trạng lún diễn ra liên tục từ năm 1990 đến nay, với độ lún tích lũy khoảng 100cm. Hiện tốc độ lún ước tính 2–5 cm/năm; tại các khu vực có mật độ công trình thương mại cao, mức lún có thể đạt 7–8 cm/năm, cao gấp đôi tốc độ mực nước biển dâng. Sự cộng hưởng giữa sụt lún, triều cường và nước biển dâng đang khiến TP.HCM đối mặt nguy cơ “chìm dần” và đe dọa trực tiếp đến định hướng phát triển lâu dài trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Trước thách thức này, các bộ ngành và TP.HCM đã triển khai nhiều biện pháp ứng phó. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang thực hiện dự án “Hiện đại hóa hệ thống độ cao quốc gia” giai đoạn 2022–2025 nhằm xác định chính xác độ cao trung bình mực nước biển. Song song đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố đang hoàn thiện hệ thống mốc độ cao hạng IV phục vụ quy hoạch, phát triển kinh tế – xã hội và đánh giá sụt lún.
Về quản lý khai thác nước ngầm, TP.HCM đã ban hành kế hoạch giảm khai thác nước dưới đất đến năm 2025, từ mức 716.581 m³/ngày xuống còn 255.000 m³/ngày, đồng thời thiết lập bản đồ phân vùng hạn chế khai thác. Nhờ đó, mực nước ngầm tại nhiều khu vực ở Quận 12, huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn (cũ) đã có dấu hiệu phục hồi. Thành phố tiếp tục đẩy mạnh khai thác nước mặt, mở rộng mạng lưới cấp nước sạch và vận động người dân chuyển đổi từ sử dụng nước ngầm sang nước sạch.
Ngoài ra, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đang phối hợp JICA triển khai nhiệm vụ mô phỏng, dự báo biến dạng mặt đất và xây dựng dự án kỹ thuật ứng phó sụt lún. Khi hoàn thành, các dự án này sẽ giúp đánh giá toàn diện nguyên nhân, đồng thời đề xuất giải pháp tổng thể nhằm giảm thiểu sụt lún.
Các chuyên gia nhận định sụt lún kết hợp với biến đổi khí hậu, triều cường và mực nước biển dâng đang tạo ra thách thức nghiêm trọng cho phát triển đô thị. Việc xây dựng hệ thống giám sát, dự báo thường xuyên và ứng dụng công nghệ hiện đại là yêu cầu cấp thiết, giúp TP.HCM đưa ra quyết sách kịp thời, hướng tới phát triển bền vững và bảo vệ an toàn cho các công trình hạ tầng trọng yếu.
