Bảo vệ tài nguyên nước trước áp lực đô thị hóa và công nghiệp hóa - Nhìn từ tư duy mới của Đảng về an ninh nguồn nước trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV
Tài nguyên nước - Ngày đăng : 09:38, 25/11/2025
Bảo vệ tài nguyên nước trước áp lực đô thị hóa và công nghiệp hóa - Nhìn từ tư duy mới của Đảng về an ninh nguồn nước trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV
Trong bối cảnh đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, tài nguyên nước của Việt Nam đang phải chịu sức ép lớn cả về lượng lẫn chất. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã thể hiện tư duy đổi mới, đặt an ninh nguồn nước vào vị trí chiến lược của an ninh quốc gia và phát triển bền vững.

Tuy nhiên, để biến nhận thức đó thành hiện thực cần những bước đột phá về thể chế, quản lý và đầu tư. Bài viết phân tích hiện trạng, điểm mới trong Dự thảo Văn kiện và góp ý của các chuyên gia nhằm tăng cường hiệu lực quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên nước cho tương lai.
Áp lực đô thị hóa và công nghiệp hóa: Nguồn nước trước “mối đe” kép
Sự gia tăng dân số đô thị, tốc độ mở rộng các khu công nghiệp, quá trình bê tông hóa đất đai và khai thác nước ngầm ồ ạt đã làm đổi khác sâu sắc cân bằng tài nguyên nước ở nhiều vùng trong cả nước. Ở những đô thị lớn, nhu cầu nước sinh hoạt, dịch vụ và sản xuất tăng nhanh, trong khi hệ thống thu gom, xử lý nước thải còn thiếu và nhiều nơi chưa đạt chuẩn; kênh rạch nội đô bị san lấp, hệ sinh thái thủy sinh suy thoái. Đồng thời, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát sinh dòng nước thải có hàm lượng ô nhiễm cao, nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ làm suy giảm chất lượng nguồn nước mặt và nước ngầm - tài nguyên sống của người dân và nền kinh tế.
Tác động của đô thị hóa không chỉ là gia tăng nhu cầu mà còn là thay đổi cấu trúc cảnh quan, giảm độ thấm và diện tích trữ nước tự nhiên. Kết quả là đô thị vừa phải đối mặt với thiếu nước vào mùa khô, vừa dễ bị ngập úng khi mưa lớn. Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và ven biển miền Trung, kết hợp giữa khai thác nước ngầm và xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu làm cho vấn đề nước ngọt càng trở nên nan giải. Trong khi đó, tại các lưu vực sông lớn, tình trạng phân tán quản lý theo đơn vị hành chính dẫn đến xung đột lợi ích, chồng chéo và lúng túng trong điều phối khi có khủng hoảng nguồn nước.

Áp lực công nghiệp hóa bổ sung một lớp thách thức khác: Nhu cầu nước dùng cho sản xuất lớn và tính đa dạng trong thành phần nước thải. Nếu các nhà máy không áp dụng công nghệ xử lý hiện đại, tình trạng ô nhiễm cục bộ sẽ ảnh hưởng lan tỏa tới nguồn cung nước sinh hoạt và canh tác nông nghiệp, làm giảm chất lượng sống và hiệu quả sản xuất. Khi đối mặt với tình trạng “thiếu - thừa - bẩn” đồng thời, quản trị nước đòi hỏi cái nhìn liên ngành, liên vùng và công cụ pháp lý, tài chính đủ mạnh để điều phối.
Tư duy mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV: Từ nhận thức đến chiến lược
Tại Cương lĩnh của Đảng năm 1991 và các Nghị quyết Đại hội VII, VIII, XIII…, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững mới chỉ được đề cập ở nguyên tắc, còn ưu tiên nguồn lực vẫn tập trung vào thúc đẩy phát triển kinh tế. Môi trường thường chỉ được xem là hệ quả cần khắc phục sau khi thúc đẩy kinh tế, chưa được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong mỗi bước đi, trong từng chính sách phát triển. Điểm mới căn bản ở đây là đã xác định bảo vệ môi trường là trụ cột để xác lập mô hình tăng trưởng mới. Điều này đồng nghĩa với việc không đánh đổi lợi ích ngắn hạn để bảo đảm lợi ích dài hạn cho quốc gia và các thế hệ tương lai.
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV xác định: "Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm...". Như vậy, Trung ương thống nhất bổ sung "bảo vệ môi trường" cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ "trung tâm".
Việc bổ sung "bảo vệ môi trường" cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trung tâm trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đánh dấu một bước phát triển nhận thức sâu sắc và vững chắc về phát triển bền vững dựa trên 3 trụ cột: Kinh tế, xã hội và môi trường. Đây không còn là lời khẳng định hình thức mà là cam kết chiến lược, đặt sinh thái môi trường làm thước đo trong mỗi chính sách phát triển.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã nâng chuẩn nhận thức và hành động về bảo vệ môi trường ở cả ba cấp độ: (i) Lý luận phát triển - môi trường là trụ cột, điều kiện và động lực tăng trưởng; (ii) Thể chế - công cụ - hoàn thiện khung pháp lý kinh tế xanh, thị trường carbon, định giá vốn tự nhiên, số hóa quản trị; (iii) Tổ chức thực thi - gắn trách nhiệm với nguồn lực, tiến độ, giám sát. Tất cả nhằm hướng tới mục tiêu nhất quán: Môi trường trong lành cho Nhân dân, nền kinh tế xanh - carbon thấp - tuần hoàn, quốc gia an toàn trước rủi ro khí hậu, hiện thực hóa tầm nhìn phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Có thể thấy, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã có bước chuyển rõ rệt trong tư duy về môi trường và tài nguyên: Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được đặt ngang hàng với mục tiêu phát triển kinh tế - chính trị - xã hội, trong đó an ninh nguồn nước được coi là một trụ cột quan trọng của an ninh quốc gia. Đây không chỉ là tuyên bố mang tính hình thức mà mở ra một khung chính sách chiến lược, kêu gọi chuyển đổi quản lý từ rời rạc sang đồng bộ, từ phản ứng sang chủ động, từ phân tán sang điều phối theo lưu vực.
Những điểm nhấn quan trọng trong Dự thảo bao gồm: (1) Xác định nước là tài sản quốc gia, cần bảo vệ cả về lượng và chất; (2) quản lý theo lưu vực sông, liên vùng và liên ngành để điều hòa phân bổ và xử lý ô nhiễm; (3) thúc đẩy chuyển đổi số trong quản trị nguồn nước, xây dựng hệ thống quan trắc, dữ liệu và mô hình dự báo; (4) đưa ra ý tưởng xây dựng Bộ chỉ số An ninh nguồn nước để theo dõi, đánh giá và chịu trách nhiệm minh bạch.
Tư duy mới này phù hợp với xu hướng quản trị tài nguyên toàn cầu, nơi nước không còn là tài nguyên đơn lẻ mà là biểu hiện của an ninh xã hội, an ninh lương thực và năng lực chống chịu của nền kinh tế với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, từ tư duy đến thực thi là quãng đường dài. Những rào cản phổ biến được chỉ ra là sự phân mảnh trong cơ chế quản lý, thiếu công cụ tài chính bền vững, khoảng cách giữa quy hoạch và thực thi, và năng lực thực thi ở cấp địa phương còn hạn chế.
Chính vì vậy, Dự thảo chỉ ra cần thiết phải chuyển hoá quan điểm thành các biện pháp thể chế: Luật, quy hoạch lưu vực, cơ chế phân bổ nước liên tỉnh, quy chuẩn xử lý nước thải bắt buộc và hệ thống giám sát trực tuyến. Tư duy ấy chỉ phát huy hiệu quả khi có nguồn lực tài chính, cơ chế kiểm soát và trách nhiệm rõ ràng đi kèm.
Giữ nguyên tinh thần thẳng thắn và xây dựng, Giáo sư, Tiến sỹ Đào Xuân Học - Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam đánh giá rằng Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện “quyết tâm chính trị rất cao và tư duy đổi mới mạnh mẽ”. Song ông nhấn mạnh: Quyết tâm cần được chuyển hoá thành những bước đột phá trong quản lý tài nguyên đặc biệt là tài nguyên nước nếu muốn đạt mục tiêu phát triển bền vững.

Theo Giáo sư Đào Xuân Học, thực trạng “phân mảnh” trong quản lý tài nguyên nước đã kéo dài nhiều năm và trở thành điểm nghẽn lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý tổng hợp lưu vực sông, phòng chống thiên tai, phát triển đô thị và nông nghiệp. Việc chia cắt trách nhiệm giữa nhiều bộ, ngành dẫn đến chính sách thiếu đồng bộ, chồng chéo và hiệu quả thực thi thấp. Ông cho rằng, để khắc phục, cần “thống nhất một đầu mối quản lý tài nguyên nước” nhằm đảm bảo tính nhất quán trong điều hành, giám sát và quy hoạch tổng thể.
Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn trong nước, Giáo sư Đào Xuân Học đề xuất xây dựng một khung pháp lý rõ ràng, bao gồm bốn luật khung:
- Luật Thủy lợi - xác định nhiệm vụ, tiêu chuẩn và nguyên tắc quản lý hệ thống thủy lợi quốc gia;
- Luật Quản lý và Khai thác công trình thủy lợi quy định trách nhiệm quản lý, vận hành, bảo trì, đầu tư và khai thác các công trình thủy lợi;
- Luật Cấp và Thoát nước điều chỉnh hoạt động cấp nước đô thị, thoát nước, xử lý nước thải và quy chuẩn kỹ thuật;
- Luật Phòng chống, giảm nhẹ thiên tai tích hợp quản lý rủi ro thiên tai liên quan nước, quy định hành lang thoát lũ, quản trị lũ lụt và hỗ trợ ứng phó khẩn cấp.
Mô hình luật khung này nhằm phân định trách nhiệm quản lý theo từng lĩnh vực chuyên ngành, đồng thời bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Bằng cách đó, luật sẽ tạo hành lang pháp lý để phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giảm chồng chéo và tăng hiệu quả quản trị lưu vực sông.

Để cụ thể hoá mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và thích ứng đô thị, Giáo sư Đào Xuân Học kiến nghị bổ sung hai đề án trọng yếu vào danh mục Chương trình quốc gia giai đoạn 2026 - 2030:
Đề án phòng, chống úng ngập bền vững tại các đô thị lớn: tập trung xây dựng quy hoạch thoát nước tích hợp, ứng dụng công nghệ quản lý lũ thông minh, hạ tầng xanh (green infrastructure) như hồ điều hòa, vườn thấm, bề mặt thẩm thấu, kết hợp hệ thống cảnh báo sớm để giảm thiểu thiệt hại do mưa lớn và ngập đô thị.
Đề án xây dựng và quản lý hành lang thoát lũ các sông lớn: bảo đảm an toàn cho cư dân sinh sống ở bãi sông, tăng khả năng thoát lũ cho hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và sông Cửu Long; đề án này còn nhằm giảm xung đột sử dụng đất giữa phát triển đô thị, nông nghiệp và bảo tồn hành lang sông.
Hai đề án này không chỉ mang tính kỹ thuật mà là chiến lược không gian giúp định hình lại quan hệ giữa đô thị hóa, nông nghiệp và bảo tồn môi trường nước.
Giáo sư Đào Xuân Học kêu gọi chuyển từ tư duy “quy hoạch chi tiết cứng nhắc” sang “quy hoạch khung” linh hoạt, tạo điều kiện cho thích ứng theo thời gian, dựa trên dữ liệu thực tế. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong dự báo, cảnh báo và ra quyết định vận hành hồ chứa, phân bổ nước, quản lý lũ lụt và giám sát xả thải. Những công cụ này sẽ giúp các cơ quan quản lý chủ động hơn, giảm tính cảm tính trong quyết sách và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.

Một điểm then chốt trong phát biểu của Giáo sư Đào Xuân Học là quản lý tài nguyên nước và ứng phó biến đổi khí hậu “không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà là vấn đề thể chế, con người và quản trị quốc gia”. Ông nhắc lại: “Phát triển bền vững đòi hỏi sự thống nhất giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, giữa khai thác và tái tạo tài nguyên. Khi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được phát huy trong quản lý tài nguyên, Việt Nam sẽ chủ động hơn trong ứng phó với thiên tai, giảm thiểu rủi ro, bảo vệ môi trường sống và đảm bảo an ninh nguồn nước cho các thế hệ tương lai.”
Từ chính sách đến thực tiễn: Lộ trình cần có địa chỉ, nguồn lực và giám sát
Nhận diện và đề xuất đó là bước đầu. Vấn đề đặt ra là làm sao để chuyển những định hướng chiến lược thành chương trình, dự án và công trình có địa chỉ, có nguồn lực và có cơ chế giám sát hiệu quả. Một số luận điểm thực tiễn cần được chú ý:
Cụ thể hóa mục tiêu bằng chỉ tiêu và lộ trình: Dự thảo cần quy định cụ thể các chỉ tiêu như tỷ lệ xử lý nước thải đô thị, tỷ lệ cung cấp nước an toàn, tỷ lệ tái sử dụng nước trong công nghiệp, tiến độ hoàn thiện quy hoạch lưu vực... Những chỉ tiêu này phải gắn với nguồn vốn, đơn vị thực hiện và thời hạn (ví dụ: 2026, 2030, 2035).
Cơ chế tài chính bền vững: Giáo sư Đào Xuân Học và nhiều chuyên gia khác đều đồng thuận về việc cần có cơ chế tài chính rõ ràng cho đầu tư hạ tầng nước: Quỹ nước quốc gia, huy động vốn tư nhân qua PPP, ưu đãi cho công nghệ xanh, cơ chế phí và trợ giá hợp lý.

Minh bạch dữ liệu và trách nhiệm giải trình: Mở dữ liệu quan trắc, công bố công khai các chỉ số nước sẽ giúp cộng đồng, báo chí và các tổ chức xã hội tham gia giám sát, tăng tính minh bạch và trách nhiệm. Bộ chỉ số An ninh nguồn nước được đề xuất sẽ là công cụ quan trọng trong giám sát này.
Nâng cao năng lực địa phương: Nhiều bất cập phát sinh từ hạn chế năng lực quản lý, vận hành công trình ở cấp tỉnh, huyện. Cần chương trình đào tạo, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ kỹ thuật để địa phương thực hiện tốt quy hoạch và vận hành hạ tầng.
Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường: Mọi quyết sách phát triển từ cấp tỉnh đến trung ương cần cân nhắc đầy đủ tác động đến nguồn nước. Sự “đo lường chi phí môi trường” vào quyết định đầu tư sẽ giúp tránh tình trạng phát triển gây hại lâu dài cho nguồn sống.
Hành động quyết liệt, đồng bộ để bảo đảm an ninh nguồn nước
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã mở ra một cơ hội quan trọng để Việt Nam tái định vị nước trong hệ thống chính sách quốc gia từ nhận thức đến chiến lược. Góp ý của Giáo sư, Tiến sỹ Đào Xuân Học là một bổ sung thiết thực, chỉ ra con đường thể chế hoá, pháp lý hoá và kỹ thuật hoá những định hướng chiến lược đó: Thống nhất đầu mối quản lý, xây dựng khung pháp luật rõ ràng theo mô hình bốn luật khung, bổ sung các đề án trọng điểm thích ứng với biến đổi khí hậu, và chuyển sang quy hoạch linh hoạt, dựa trên dữ liệu lớn.
Áp lực đô thị hóa và công nghiệp hóa không chờ đợi. Nếu không hành động quyết liệt, chúng ta sẽ phải đối mặt với những hệ lụy khó đảo ngược: Suy giảm nguồn cung nước an toàn, ô nhiễm lan tỏa, thiệt hại kinh tế - xã hội và gia tăng rủi ro thiên tai. Giải pháp nằm ở sự kết hợp: Chính trị - thể chế - kỹ thuật - tài chính - cộng đồng. Khi đó, việc bảo vệ nguồn nước không chỉ là nhiệm vụ của một ngành hay một giai đoạn, mà là “sứ mệnh của toàn xã hội” đúng như tinh thần Dự thảo Văn kiện mong muốn.
Giữ vững tư duy mới, song song với đó là thiết kế lộ trình thực thi rõ ràng, cơ chế tài chính bền vững, minh bạch thông tin và nâng cao năng lực quản trị ở mọi cấp độ đó là con đường để Việt Nam bảo đảm an ninh nguồn nước, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Phải “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy sức sáng tạo của toàn xã hội, phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và tài chính xanh” để mỗi quyết sách phát triển đều cân bằng lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường, hướng tới một Việt Nam xanh, an toàn và bền vững cho các thế hệ mai sau.
