Vì sao hệ thống hồ chứa đồ sộ nhưng hạ du vẫn ngập nặng?
Nước và Đời sống - Ngày đăng : 15:31, 01/12/2025
Vì sao hệ thống hồ chứa đồ sộ nhưng hạ du vẫn ngập nặng?
Dù có hệ thống hồ chứa đồ sộ với hơn 7.000 hồ lớn nhỏ nhưng nhiều địa phương hạ du vẫn chìm trong ngập sâu mỗi khi mưa lớn. Ngoài yếu tố cực đoan của thời tiết, hàng loạt lỗ hổng quản lý hồ đập đang khiến việc xả lũ trở thành bài toán bị động. Những bất cập này đặt ra câu hỏi lớn: Liệu thủy điện đã thực sự làm tròn vai trò “lá chắn” hay vẫn là mắt xích dễ tổn thương trong phòng chống lũ?

Việt Nam hiện sở hữu một hệ thống hồ chứa đồ sộ với hơn 7.000 hồ lớn nhỏ, tổng dung tích trên 70 tỷ m³ nước. Trong đó, 466 hồ thủy điện chiếm tới 56 tỷ m³ và gần 20.000MW công suất lắp máy. Hệ thống này, về lý thuyết, đủ khả năng điều tiết lũ, cấp nước sinh hoạt, sản xuất và bảo vệ hạ du. Thế nhưng thực tế cho thấy, mỗi mùa mưa bão, người dân hạ du vẫn phải “chống chọi” với lũ lụt diện rộng, gây thiệt hại nặng về tài sản và đời sống.
Một điểm đáng lo ngại là tuổi đời của hệ thống hồ thủy lợi. Hiện có trên 1.100 hồ thủy lợi trên 40 năm tuổi, chưa được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên. Những “cụ già hồ đập” này là những mắt xích yếu dễ gây sự cố, tiềm ẩn nguy cơ tràn, vỡ hoặc phải xả lũ khẩn cấp, khiến hậu quả lập tức đổ dồn về hạ du.
Theo các chuyên gia thủy lợi, tuổi đời cao cộng với cơ chế vận hành không đồng bộ và tác động của biến đổi khí hậu khiến nhiều hồ chứa tiềm ẩn nguy cơ. Hệ thống hồ đập giống như một cỗ máy khổng lồ; khi các mắt xích già cỗi chưa được kiểm soát chặt, hậu quả sẽ lập tức đổ về hạ du, khiến người dân phải gánh chịu thiệt hại đầu tiên.
Mưa lũ miền Trung 2025: Phép thử "nghiệt ngã" cho hồ chứa
Đợt mưa lũ sau bão vừa qua là minh chứng sinh động. Trong 2–3 ngày liên tiếp, từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi đến Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk, mưa lớn kéo dài với cường độ tăng mạnh ngay trước và sau khi bão đổ bộ. Lũ trên nhiều sông vượt báo động 2, có nơi vượt báo động 3; mực nước trên các sông Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn và sông Ba đạt mức cao nhất nhiều năm trở lại đây. Hạ du Đắk Lắk, đặc biệt các xã Phú Hòa, Sơn Hòa và Đông Hòa, nước lên rất nhanh gây ngập sâu; tại Gia Lai và Quảng Ngãi, hàng loạt khu dân cư bị chia cắt do lũ tràn đường.
Các chuyên gia nhận định đây là một hiện tượng cực đoan điển hình, mưa “mấy chục năm mới xảy ra một lần” và nguy hiểm hơn là diễn ra theo cơ chế “lũ kép”, nghĩa là một đợt lũ chưa kết thúc đã xuất hiện đợt khác, khiến lưu vực không có thời gian xả bớt nước lũ. Mưa lũ là yếu tố bất khả kháng, nhưng nếu hệ thống tiêu chuẩn và mô hình vận hành vẫn đứng yên trong khi khí hậu thay đổi, rủi ro sẽ không dừng lại ở mức thiên tai mà trở thành thất bại trong quản trị rủi ro.

Nhiều yếu tố tự nhiên khiến ngập lụt hạ du trở nên nghiêm trọng. Lượng mưa đo được tại Gia Lai và Khánh Hòa từ 200mm đến 1.735mm chỉ diễn ra trong vài chục giờ, tạo ra một khối nước khổng lồ dội xuống toàn bộ lưu vực. Đặc trưng địa hình hẹp, dốc ở Nam Trung bộ và Tây Nguyên khiến nước chảy nhanh, hồ chứa khó cân đối lưu lượng. Biến đổi khí hậu gia tăng tần suất mưa lớn, lũ chồng lũ, khiến các tiêu chuẩn tính toán và mô hình vận hành hồ chứa hiện nay không còn phù hợp.
Chia sẻ liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Tài Sơn - chuyên gia thủy lợi cho rằng, riêng hồ sông Ba Hạ, chỉ trong 48 giờ đã có khoảng 1,98 tỷ m³ nước đổ về trong khi dung tích khả dụng của hồ chỉ 66,2 triệu m³. Với tỷ lệ chênh lệch khủng khiếp như vậy, lựa chọn duy nhất để bảo vệ an toàn đập là xả lũ. Không một công trình nào trên thế giới có thể ôm nổi lượng nước vượt xa nhiều lần dung tích điều tiết như thế.
.png)
Ngoài yếu tố tự nhiên, nhiều vấn đề quản lý và vận hành hồ chứa làm tình trạng ngập lụt hạ du thêm nghiêm trọng. Hệ thống hồ chứa đã được đưa vào quản lý, nhưng chỉ khoảng 900 hồ có bộ thông số kỹ thuật tương đối đầy đủ.
Các hồ còn lại thiếu nhiều dữ liệu, chủ yếu chỉ có tên, dung tích và vị trí; 592 đập dâng vẫn chưa được cập nhật thông số kỹ thuật. Nhiều hồ vận hành theo “lũ đơn”, dựa trên số liệu lịch sử cũ, không phản ánh hiện trạng 2–3 năm gần đây. Khi mưa lớn, lượng nước đổ về thực tế có thể gấp 4–6 lần trung bình tháng, vượt xa các kỷ lục trong quá khứ. Việc xác định hồ nào xả trước, hồ nào xả sau, xả với lưu lượng bao nhiêu để tổng tác động xuống hạ du không vượt quá ngưỡng chịu đựng còn thiếu khoa học. Nhiều hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết, rơi vào thế bị động khi mưa lớn dồn dập. Một số hồ vẫn thông báo xả lũ thủ công qua điện thoại hoặc công văn, khiến người dân hạ du không có thời gian ứng phó.
Thông tin từ đại diện Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi cho biết, hiện chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp; 51% hồ có phương án bảo vệ; 9% hồ được kiểm định an toàn; 31% hồ có quy trình vận hành; 19% hồ lắp thiết bị quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng, và chỉ 11% hồ cắm mốc phạm vi bảo vệ. Đây là những con số báo động cho thấy nhiều điểm yếu kéo dài trong vận hành hồ chứa.
Đợt mưa lũ lịch sử ở miền Trung vừa qua là phép thử năng lực quản trị rủi ro của hệ thống hồ chứa. Trong vài ngày, hàng chục hồ thủy điện, thủy lợi buộc phải xả lũ với lưu lượng khổng lồ, khiến hạ du ngập sâu. Theo thống kê của Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện quốc gia (NSMO), Bộ Công Thương, đỉnh điểm như ngày 20/11, có tới 93/122 hồ trong hệ thống phải xả. Riêng hồ thủy điện sông Ba Hạ xả 16.070 m³/s, tương đương hơn 30 lần lưu lượng chạy máy, đưa tổng công suất các hồ xả lên 16.400MW trên tổng số 19.600MW thủy điện toàn hệ thống. Các chuyên gia cho rằng những trận lũ vừa qua làm rõ mối liên hệ trực tiếp giữa vận hành hồ chứa và mức độ rủi ro tại hạ du. Khi dự báo mưa chưa chính xác hoặc thông tin xả lũ không được truyền tải kịp thời, người dân gần hồ gần như không có thời gian ứng phó, gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Thủy điện – “mắt xích” còn bỏ ngỏ trong cắt lũ bảo vệ hạ du
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, hệ thống hồ chứa dù hùng hậu về quy mô vẫn chưa phải là “lá chắn” tuyệt đối.
Các chuyên gia nhấn mạnh cần hiện đại hóa hạ tầng và nâng cấp hồ cũ, đặc biệt các hồ thủy lợi trên 40 năm tuổi; cải thiện cơ sở dữ liệu hồ chứa, xây dựng bản đồ ngập lụt hạ du đầy đủ để phục vụ cảnh báo sớm; chuyển hướng quản lý theo lưu vực và liên lưu vực, xác định chức năng đa mục tiêu: Cắt lũ, bảo vệ công trình, bảo vệ hạ du, cấp nước sinh hoạt và sản xuất; tăng cường phối hợp giữa thủy lợi và thủy điện, sử dụng công nghệ điều tiết và dự báo chính xác để xả lũ an toàn, hạn chế thiệt hại cho hạ du; đồng thời đào tạo, xây dựng quy trình khoa học và truyền thông hiệu quả để người dân có thời gian chuẩn bị, giảm thiểu rủi ro.
Đồng thời, nếu hệ thống hồ chứa được vận hành đồng bộ, hiện đại và gắn liền với dự báo chính xác thì hoàn toàn có thể biến cỗ máy nước đồ sộ này thành công cụ kiểm soát lũ, bảo vệ hạ du và khai thác hiệu quả nguồn nước. Không thể để những “cụ già hồ đập” tiếp tục là mối nguy tiềm ẩn cho người dân. Bài học từ các sự cố gần đây là lời cảnh báo mạnh mẽ, một chiến lược đồng bộ từ nâng cấp hạ tầng, cải thiện dữ liệu, hiện đại hóa công nghệ đến phối hợp liên hồ và truyền thông hiệu quả là yêu cầu cấp bách để hệ thống hồ chứa thực sự trở thành “lá chắn” trước lũ lụt và bảo vệ cộng đồng hạ du.

Mặc dù cả nước hiện có hơn 7.000 hồ thủy lợi với tổng dung tích khoảng 15,5 tỷ m³, nhưng nhiều hồ thủy điện lại sở hữu quy mô lớn hơn đáng kể, tiềm năng cắt lũ của các hồ này vẫn chưa được khai thác tối đa. Nếu các thủy điện tham gia tích cực hơn vào công tác phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được nâng lên rõ rệt, đặc biệt trong những trận mưa lớn lịch sử vừa qua.
Chia sẻ tại Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” vừa qua, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi, nhấn mạnh cần tăng cường phối hợp giữa thủy lợi và thủy điện, đồng thời ứng dụng công nghệ hiện đại để vừa bảo đảm an toàn cho hạ du, vừa phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.
Đợt mưa lũ lịch sử tại miền Trung gần đây đã trở thành phép thử khắc nghiệt đối với năng lực quản trị rủi ro của hệ thống hồ chứa. Trong vài ngày, hàng chục hồ thủy điện và thủy lợi buộc phải xả lũ với lưu lượng khổng lồ, khiến hạ du ngập sâu, thiệt hại về tài sản và đời sống nhân dân nặng nề. Theo thống kê từ Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và Thị trường điện quốc gia (NSMO), tổng công suất các hồ thủy điện đang xả lên tới khoảng 16.400 MW trên tổng số 19.600 MW toàn hệ thống, trong đó riêng hồ Sông Ba Hạ xả lũ với tổng lưu lượng khoảng 16.070 m³/s – con số đưa toàn bộ “hàng rào” hồ chứa đến sát ngưỡng chịu đựng. Thực tế này cho thấy, bên cạnh các nguyên nhân tự nhiên, vai trò điều phối và vận hành thủy điện là mắt xích còn bỏ ngỏ trong công tác cắt lũ, đặt ra những câu hỏi cấp bách về hiệu quả quản lý và phối hợp liên hồ trong tương lai.
