Thị trường tín chỉ carbon – công cụ mới cho phát triển bền vững

Emagazines - Ngày đăng : 08:04, 03/12/2025

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng gia tăng và các cam kết quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính ngày càng rõ ràng, thị trường tín chỉ carbon đang nổi lên như một công cụ quan trọng thúc đẩy giảm phát thải theo cơ chế thị trường. Việt Nam đã xác định phát triển thị trường carbon nội địa là một trong những giải pháp trọng tâm để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, phù hợp với định hướng chiến lược của Đảng về ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Emagazines

Thị trường tín chỉ carbon – công cụ mới cho phát triển bền vững

Thu Lan 03/12/2025 08:04

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng gia tăng và các cam kết quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính ngày càng rõ ràng, thị trường tín chỉ carbon đang nổi lên như một công cụ quan trọng thúc đẩy giảm phát thải theo cơ chế thị trường. Việt Nam đã xác định phát triển thị trường carbon nội địa là một trong những giải pháp trọng tâm để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, phù hợp với định hướng chiến lược của Đảng về ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

green-minimalist-carbon-footprint-presentation-1-.png

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng gia tăng và các cam kết quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính ngày càng rõ ràng, thị trường tín chỉ carbon đang nổi lên như một công cụ quan trọng thúc đẩy giảm phát thải theo cơ chế thị trường. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã nhấn mạnh: Yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý để phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp, thiết lập và vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon nội địa.

Tổng quan về thị trường tín chỉ carbon

Thị trường carbon bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên hợp quốc về BĐKH, được thông qua vào năm 1997. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu cam kết. Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính. Do carbon là khí nhà kính quy đổi tương đương của mọi khí nhà kính, nên các giao dịch được gọi chung là mua bán, trao đổi carbon, hình thành thị trường carbon hay thị trường tín chỉ carbon. (Liên Hợp quốc, 1997).

green-minimalist-carbon-footprint-presentation-1-(1).png

Thị trường carbon vận hành dựa trên cung và cầu đối với hai loại hàng hóa kể trên, được phân thành 2 loại:

Thị trường bắt buộc: Là thị trường trong đó các cơ sở bắt buộc phải thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, thể hiện ở lượng hạn ngạch phát thải mà cơ quan quản lý phân bổ cho mỗi cơ sở. Các cơ sở được phép mua bán trao đổi lượng hạn ngạch này trên thị trường. Ví dụ, cơ sở phát thải ít sẽ dư hạn ngạch để bán cho các cơ sở phát thải nhiều bị thiếu hạn ngạch. Tổng phát thải của thị trường sẽ không đổi. Do đó, mục đích chính của thị trường bắt buộc là để kiểm soát phát thải. Hàng hóa chính được giao dịch là hạn ngạch phát thải (nên thị trường carbon bắt buộc được đặc trưng bởi cơ chế giao dịch hạn ngạch phát thải), có thể cho phép sử dụng một lượng nhỏ tín chỉ carbon (thường 5-10%).

Thị trường tự nguyện: Là thị trường trong đó các doanh nghiệp tự nguyện thực hiện giảm phát thải khí nhà kính và mua tín chỉ carbon để đạt được mục tiêu này. Ví dụ, doanh nghiệp cam kết thực hiện net-zero, tuy nhiên do nhu cầu sản xuất - kinh doanh, họ vẫn phải dùng một lượng nhiên liệu hóa thạch nhất định, họ sẽ mua tín chỉ carbon trên thị trường để bù trừ cho phát thải từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch này. Như vậy, hàng hóa được giao dịch trên thị trường tự nguyện là tín chỉ carbon.

Có thể thấy, việc hình thành thị trường tín chỉ carbon là thể hiện cam kết giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng 0 (Net Zero), là bước cụ thể hóa cho những chính sách về giảm phát thải khí nhà kính, phân bổ hạn ngạch phát thải, trao đổi tín chỉ carbon, tạo nguồn lực tài chính xanh… Thông qua thị trường carbon, các công ty hoặc cá nhân có thể bù đắp lượng phát thải khí nhà kính bằng cách mua thêm hạn ngạch phát thải hoặc tín chỉ carbon từ các đơn vị loại bỏ hoặc giảm phát thải khí nhà kính.

Thị trường tín chỉ carbon hoạt động như thế nào?

Việc buôn bán tín chỉ carbon được quản lý bởi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm đặt ra giới hạn về lượng khí nhà kính (tính bằng một đơn vị CO2) có thể được thải ra. Do đó, các doanh nghiệp được phân bổ một lượng carbon cụ thể mà họ có thể thải ra hàng năm. Nếu vượt quá giới hạn này, họ cần mua tín chỉ carbon hoặc đền bù carbon. Nếu không vượt quá giới hạn, họ có thể bán tín chỉ carbon chưa sử dụng hoặc các doanh nghiệp cần chúng.

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, số lượng giấy phép trên thị trường còn hạn chế vì tổng số tiền là một nỗ lực để phù hợp với mục tiêu cắt giảm. Khi bắt đầu giai đoạn giao dịch, giấy phép phát thải có thể được mua trong cuộc đấu giá hoặc được cấp miễn phí cho các doanh nghiệp. Theo thời gian, số lượng giấy phép hiện có ngày càng giảm, góp phần gây áp lực lên các doanh nghiệp tham gia trong việc giảm lượng khí thải và đầu tư vào các giải pháp sản xuất sạch hơn. Mục tiêu là về lâu dài giá của các công nghệ mới và sạch hơn sẽ giảm trong khi sự đổi mới tăng lên.

Thị trường carbon ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có một thời gian dài nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác, xuất khẩu tài nguyên thô và đang phải đối mặt với những thách thức của tiến trình phát triển, như: BĐKH, ô nhiễm môi trường, an sinh xã hội. Tốc độ gia tăng phát thải khí nhà kính của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực, như: Malaysia, Indonesia, Trung Quốc. Tuy nhiên, ảnh hưởng của BĐKH toàn cầu, sự suy thoái của môi trường đã tạo ra áp lực trong việc thúc tăng trưởng xanh hướng tới phát triển bền vững của Việt Nam. Chính vì vậy, trong thời gian qua, Việt Nam đã có những động thái tham gia tích cực để ứng phó với BĐKH, trong đó có việc chuẩn bị mọi tiền đề sẵn sàng xây dựng thị trường carbon ngay từ năm 2012 thông qua việc trở thành thành viên của Chương trình sẵn sàng tham gia thị trường carbon quốc tế. Đến năm 2015, dự án Chuẩn bị sẵn sàng cho xây dựng thị trường carbon - VNPMR tại Việt Nam đã được triển khai nhằm tăng cường năng lực xây dựng các công cụ thị trường, tạo điều kiện cho việc hình thành thị trường carbon ở Việt Nam. Đồng thời, một cơ chế chính sách và cơ cở pháp lý cũng được ra đời tạo nền tảng cho thị trường hoạt động, như:

Luật Bảo vệ Môi trường 2020:

Với sự ra đời của Luật Bảo vệ Môi trường 2020, Việt Nam đã đặt ra những quy định chặt chẽ về việc bảo vệ và phát triển nguồn lực thiên nhiên, đặc biệt là rừng, nhằm mục tiêu hấp thụ và lưu trữ carbon. Luật này không chỉ định rõ về trách nhiệm bảo tồn rừng mà còn nhấn mạnh vai trò quan trọng của rừng trong việc giảm thiểu và phản hồi với biến đổi khí hậu. Các quy định trong luật đã tạo nền tảng pháp lý mạnh mẽ để thúc đẩy hoạt động tín chỉ carbon rừng. Đây có thể dược xem là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhất với thị trường carbon tại Việt Nam.

Nghị Định 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018:

Nghị định này đặt ra cơ chế khuyến khích quan trọng cho sự phát triển của các dự án hạch toán cacbon rừng và cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Theo đó, các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình và cộng đồng cơ sở có đất rừng đang bảo tồn và phát triển rừng được khuyến khích người dân tích cực tham gia triển khai các dự án này và nhận tín chỉ carbon rừng sau khi thực hiện. Nghị định này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi mà còn là động lực quan trọng, thúc đẩy tình hình bảo vệ rừng và quản lý carbon ở Việt Nam

Nghị định 06/2022/NĐ-CP:

Nghị định này quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozon, tổ chức và phát triển thị trường carbon và các biện pháp thúc đẩy hoạt động về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Nghị định áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động phát thải khí nhà kính, giảm nhẹ phát thải và hấp thụ khí nhà kính; tham gia phát triển thị trường carbon trong nước, kết nối với thị trường carbon khu vực và thế giới; hoạt động sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, tiêu thụ và xử lý các chất làm suy giảm tầng ozon, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozon.

Nghị định 119/2025/NĐ-CP:

Nghị định 119 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 06, trong đó có các nội dung liên quan đến phát triển thị trường carbon như Điều 12 về tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải KNK cho cơ sở; điều 16 về đối tượng thực hiện trao đổi, hỗ trợ trao đổi trên thị trường carbon trong nước. Theo đó, trong giai đoạn 2025-2026 là các nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất sắt thép, cơ sở sản xuất xi măng thuộc danh mục cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK được Thủ tướng ban hành. Tại điều 17, giai đoạn từ 2029, Việt Nam sẽ xây dựng và thực hiện cơ chế đấu giá hạn ngạch phát thải KNK.

Điều 19, điểm 8, quy định sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ phát thải KNK. Khoản a tại điều này quy định cơ sở có thể sử dụng tín chỉ carbon từ dự án thuộc các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quy định tại điều 20 để bù trù không quá 30% lượng hạn ngạch phát thải KNK được phân bổ.

Điều 20 khoản a quy định về trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon quốc tế. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chủ trì xây dựng dự thảo nghị định trao đổi quốc tế kết quả giám sát phát thải KNK, tín chỉ carbon để trình Chính phủ ban hành.

Tại Quyết định số 232 của Thủ tướng:

Quyết định phê duyệt đề án thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam. Mục tiêu là phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, góp phần thực hiệ mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK đã cam kết tại NDC với chi phí của doanh nghiệp và xã hội thấp, dạo dòng tài chính mới cho hoạt động cắt giảm KNK, thúc đẩy chuyển đổi xanh, phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam ở trong nước và trên thị trường thế giới. phát triển nền kinh tế carbon thấp và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

green-minimalist-carbon-footprint-presentation-2-.png

Qua 3 giai đoạn này có thể thấy yêu cầu về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách, quy định pháp luật để vận hành thị trường carbon là liên tục, bởi đây là thị trường tương đối mới và đặc thù ở Việt Nam.

Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIV của Đảng: Nhận thức mới – chính sách đầy đủ hơn

Từ Đại hội XI, XII, Đảng đã nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về vai trò của môi trường đối với phát triển, coi việc kiểm soát ô nhiễm, phục hồi hệ sinh thái và sử dụng bền vững tài nguyên là điều kiện để đảm bảo chất lượng cuộc sống của Nhân dân và ổn định xã hội. Chủ trương “kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế trước mắt” được xác lập, mở đường cho đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, tại Đại hội XIII, Đảng đã nâng tầm quản lý môi trường lên mức đảm bảo an ninh sinh thái, an ninh nguồn nước, đồng thời thể hiện cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu, như mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

green-and-white-modern-sustainable-agriculture-presentation.png

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục kế thừa và phát triển tư duy đó ở tầm cao mới, khi xác định bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, là trụ cột và động lực của phát triển bền vững. Đây là sự chuyển biến quan trọng về chất, phản ánh nhận thức sâu sắc rằng, tăng trưởng kinh tế chỉ bền vững khi được đặt trên nền tảng sinh thái vững chắc. Môi trường không còn được nhìn nhận như yếu tố đi sau hay bị tác động thụ động bởi phát triển, mà trở thành một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của quốc gia, là bộ phận cốt lõi của năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa xanh. Sự phát triển nhận thức này tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc thiết kế và triển khai các chính sách phát triển xanh trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng và bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng gay gắt.

Để quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, bản dự thảo nhấn mạnh cần huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, cơ chế ưu đãi quốc tế phục vụ chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Dự thảo Văn kiện đòi hỏi cơ chế huy động nguồn lực trong nước và quốc tế cho chuyển đổi xanh, khuyến khích phát triển thị trường tín chỉ carbon, thí điểm định giá - hạch toán vốn tự nhiên vào quy hoạch và đầu tư công, mở rộng quỹ bảo vệ môi trường và trái phiếu xanh để tài trợ các dự án giảm phát thải, phục hồi hệ sinh thái. Đồng thời, nhấn mạnh phân cấp - phân quyền đi đôi với trách nhiệm giải trình, thanh tra - kiểm tra số hóa, tăng tính răn đe của chế tài; qua đó khắc phục các điểm nghẽn đã được nhận diện trong tổng kết Nghị quyết 24 về thực thi và phối hợp liên vùng - liên ngành.

green-and-white-modern-sustainable-agriculture-presentation-1-.png

Từ hạn chế đến giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon tại việt nam

TS. Nguyễn Sỹ Linh - Trưởng Ban Biến đổi khí hậu, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ ra một số điểm nghẽn trong phát triển thị trường carbon ở Việt Nam. Thị trường carbon có thị trường bắt buộc và tự nguyện, trong đó có bên bán và bên mua. Ở góc độ nghiên cứu, ông thấy rằng bên bán đang thiếu các quy định về trao đổi hạn ngạch giữa các lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện trao đổi; mức giá bán trong giai đoạn thử nghiệm hay các chi phí tuân thủ; quy mô thị trường bắt buộc.

Hiện nay cũng thiếu thông tin về bên xác nhận tín chỉ đủ điều kiện để bên bán cung cáp cho bên mua, các quy định về bên tham gia thị trường chính và thiếu thông tin về bên mua cũng như quy mô thị trường.

Đối với bên mua (bên sử dụng hạn mức phát thải hoặc hạn ngạch) thì hiện còn thiếu các quy định về phân bổ hạn ngạch để doanh nghiệp chủ động kế hoạch, không rõ lượng được phát thải và lượng cần mua để bù đắp là bao nhiêu cũng như chưa có hướng dẫn về hạch toán chi phí tuân thủ để đưa vào chiến lược kinh doanh.

Với thị trường tự nguyện, bên mua đang gặp khó khăn khi thiếu thông tin về bên có thể cung cấp tín chỉ, quy định về tiêu chuẩn tín chỉ có thể giao dịch được cũng như hành lang pháp lý quy định các điều kiện về ngành kinh doanh có điều kiện (cung cấp tín chỉ).

TS. Nguyễn Sỹ Linh đưa ra một số khuyến nghị để thúc đẩy phát triển thị trường carbon ở Việt Nam:

Đối với thị trường tuân thủ (hệ thống trao đổi hạn ngạch carbon ETS)

  • Sớm xây dựng và ban hành quy định chi tiết về phân bổ hạn ngạch phát thải và lộ trình thực hiện phân bổ (từ miễn phí sang đấu giá)
  • Đưa vào vận hành hệ thống đăng ký kết quả kiểm kê phát thải KNK, hạn ngạch được phép phát thải, dự án tạo lập tín chỉ carbon
  • Hướng dẫn tham gia sàn giao dịch của thị trường carbon trong nước (bao gồm cả hạn ngạch và tín chỉ carbon) cho các bên liên quan

Đối với thị trường tự nguyện

  • Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn carbon (cho các nguồn tạo lập tín chỉ carbon khác nhau như lâm nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, chất thải…)
  • Ban hành quy định về quyền lợi, trách nhiệm của cả bên tạo lập và bên sử dụng tín chỉ carbon trên thị trường tự nguyện và ETS
  • Truyền thông, nâng cao nhận thức về các yêu cầu để tạo lập hình thành tín chỉ carbon
green-and-white-modern-sustainable-agriculture-presentation-2-.png

Theo Tiến sĩ Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế thuộc Ban Kinh tế Trung ương, trên thế giới hiện có khoảng 73 cơ chế carbon, tính cả ở thị trường tự nguyện và bắt buộc, đang được vận hành ở cấp quốc gia và cấp địa phương. Các cơ chế này hiện đang phủ khoảng 23% trong tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Việc tham gia thị trường tín chỉ carbon mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho cả cộng đồng về kinh tế và môi trường, xã hội, thúc đẩy phát triển bền vững. Trên bình diện toàn cầu, thị trường tín chỉ carbon là công cụ thị trường hiệu quả nhất giảm phát thải khí nhà kính một cách công bằng nhằm mục tiêu ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu khốc liệt hiện nay.

Mặc dù có những lợi ích lớn như vậy, nhưng trong cuộc khảo sát gần đây của công ty cổ phần tư vấn năng lượng và môi trường, tại Việt Nam, có hơn 50% doanh nghiệp trên tổng số 537 doanh nghiệp chỉ biết sơ qua về hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải (ETS) và thị trường carbon, và chỉ 1,27% doanh nghiệp biết về ETS và thị trường tín chỉ carbon. Như vậy có thể thấy, hầu như các doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ hiểu biết và quan tâm đến thị trường với nhiều ưu thế này.

Đề xuất giải pháp về thực trạng nêu trên, Tiến sĩ Nguyễn Tú Anh cho rằng, cần có một hành lang pháp lý đồng bộ, đầy đủ xác định rõ quyền và nghĩa vụ các bên tham gia, nguyên tắc xác định sản phẩm, nguyên tắc xác định quyền sở hữu, quyền định đoạt, nguyên tắc xác định giá cả giao dịch và các chuẩn mực phải tuân thủ. Do thị trường tín chỉ carbon là một dạng thị trường đặc biệt mua bán quyền phát thải và năng lực hấp thụ khí nhà kính, do đó những điều kiện cơ bản trên đây vẫn chưa được đáp ứng. Sau khi kiểm kê một cách đáng tin cậy, mới có căn cứ để bàn đến việc ban hành hạn mức phát thải, từ hạn mức phát thải mới hình thành nên nhu cầu của thị trường tín chỉ carbon.

green-and-white-modern-sustainable-agriculture-presentation-3-.png

Kỳ vọng và định hướng một Việt Nam xanh

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng khẳng định một cách nhất quán và toàn diện rằng, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, vừa là nền tảng, điều kiện bảo đảm, vừa là động lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Việc đặt môi trường ở vị trí trụ cột của mô hình phát triển không chỉ phản ánh sự trưởng thành về tư duy lý luận của Đảng, mà còn là yêu cầu khách quan, cấp thiết của thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa xanh, cạnh tranh chiến lược về công nghệ và khí hậu ngày càng gay gắt.

Những đổi mới mạnh mẽ trong tư duy và định hướng trong Dự thảo Văn kiện, từ kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp đến bảo đảm an ninh môi trường, an ninh nguồn nước và chuyển đổi số trong quản trị môi trường đã tạo nên khung chính sách chiến lược để Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới với tầm nhìn dài hạn, năng lực chống chịu cao và tính tự cường quốc gia vững chắc hơn. Điều quan trọng là các định hướng đó đã gắn với nhiệm vụ và giải pháp tổ chức thực hiện có địa chỉ, có nguồn lực, có cơ chế giám sát, thể hiện quyết tâm chính trị cao trong việc đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

Trong giai đoạn tới, để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, yêu cầu đặt ra là phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy sức sáng tạo của toàn xã hội, phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và tài chính xanh, bảo đảm mỗi quyết sách phát triển đều được cân nhắc trên cơ sở cân bằng lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường.

green-minimalist-carbon-footprint-presentation-3-.png

Thu Lan