Phát thải ròng bằng “0” từ cam kết đến hành động
Tin hoạt động Hội - Ngày đăng : 10:30, 19/01/2023
Nhiều báo chí quốc tế nhận định đây là mục tiêu tham vọng và rõ ràng về cắt giảm khí thải của một nước đang phát triển, đưa Việt Nam gia nhập hàng ngũ với nhiều quốc gia khác nhằm ngăn chặn tình trạng nóng lên toàn cầu.
Việt Nam và mục tiêu phát thải ròng bằng “0”
Với sự khẳng định của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị Thượng đỉnh khí hậu COP26, những tuyên bố hết sức mạnh mẽ của Việt Nam đã được thế giới đánh giá rất cao. Để thực hiện các cam kết này, cần có các chiến lược, kế hoạch chi tiết, đưa ra lộ trình thực hiện cụ thể.
Theo kịch bản phát thải trong điều kiện phát triển thông thường (BAU) của Việt Nam, đến 2050 tổng lượng phát thải khí nhà kính (KNK) của Việt Nam được dự báo sẽ đạt mức 1495,4 triệu tấn CO2tđ, trong đó, năng lượng là 1210 triệu tấn CO2tđ, chiếm 81%, LULUCF giảm chiếm 4%, nông nghiệp chiếm 10%. Vậy, năng lượng sẽ là ngành quyết định về tổng lượng phát thải và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam.
Với xu hướng toàn cầu chuyển dịch khỏi nhiên liệu hóa thạch, kỷ nguyên than đang khép lại và các dự án than mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong huy động tài chính. Tại Hội nghị COP26, ngoài tuyên bố Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Việt Nam đã tham gia Tuyên bố Glasgow của các nhà Lãnh đạo về rừng và sử dụng đất và Cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu, Tuyên bố chung toàn cầu về chuyển dịch từ than sang năng lượng sạch. Để hướng tới lộ trình phát thải ròng bằng “0” thì năng lượng tái tạo gồm điện mặt trời, điện gió và các nguồn khác cần được phát triển. Tuy nhiên, phát triển năng lượng tái tạo cần đi đôi với giải pháp lưu trữ năng lượng, đây là một trong các chìa khóa thành công của điện gió, điện mặt trời cho Việt Nam, khi tỷ trọng tích hợp năng lượng tái tạo vào hệ thống điện ngày càng cao.
Hiện nay, xu hướng dịch chuyển năng lượng đang diễn ra rất rõ ràng, đặc biệt trong ba lĩnh vực vận tải, dân dụng và sản xuất. Trong bức tranh đó, nhiên liệu hydro xanh bắt đầu nổi lên như một giải pháp tiềm năng bởi nó không chỉ đáp ứng được điều kiện “sạch” ít phát thải KNK, mà còn có trữ lượng dồi dào, dễ vận chuyển, chuyển đổi sang các dạng năng lượng khác. Theo nhận định của các chuyên gia, giao thông vận tải sẽ là lĩnh vực có tỷ lệ chuyển đổi sang nhiên liệu hydro xanh mạnh nhất. Phương tiện giao thông điện cũng là một hướng đi đúng đắn đối với lĩnh vực giao thông vận tải.
Việt Nam đã gửi Ban Thư ký của UNFCCC bản Thỏa thuận đã trở thành Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật vào tháng 9/2020, phê duyệt Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh, Quy hoạch điện 8 đang ở trong giai đoạn xin ý kiến để hoàn thiện, Chiến lược quốc gia về BĐKH cũng đang trong giai đoạn xây dựng. Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0”, cần thiết phải rà soát, cập nhật và điều chỉnh các chiến lược, kế hoạch. Đồng thời, cần chú trọng tới cơ chế tạo điều kiện thu hút nguồn vốn từ Quỹ Khí hậu Xanh để hỗ trợ thực hiện phát thải ròng bằng “0” ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy sớm thị trường carbon và các cơ chế chính sách về tài chính xanh, kinh tế tuần hoàn…
Hướng tới một thế giới không phát thải ròng là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại, giống như một cuộc cách mạng trong sản xuất, tiêu dùng và giao thông vận tải. Để đạt được điều này, các quốc gia, công ty cần phương pháp thiên nhiên, như rừng, để loại bỏ cùng một lượng carbon thải ra, hoặc sử dụng công nghệ thu giữ và lưu trữ, loại bỏ carbon tại nguồn phát thải.
Trên thế giới, hơn 70 quốc gia, bao gồm cả những quốc gia gây ô nhiễm nhiều nhất, đại diện cho khoảng 76% lượng khí thải toàn cầu, như Trung Quốc, Mỹ và Liên minh Châu Âu, đã đặt mục tiêu phát thải bằng “0”. Hơn 1.200 công ty đã đưa ra các mục tiêu dựa trên cơ sở khoa học, và hơn 1.000 thành phố, hơn 1.000 tổ chức giáo dục và hơn 400 tổ chức tài chính cũng đã tham gia. Một liên minh ngày càng rộng lớn giữa các quốc gia, thành phố, doanh nghiệp và các tổ chức đang tập hợp, cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0”.
Cộng đồng và doanh nghiệp với Quy định giảm phát thải khí nhà kính và cơ chế carbon
Phát thải ròng bằng “0” là mục tiêu không thể trì hoãn. Các nhà khoa học đã chứng minh, chúng ta cần phải đưa thế giới về trạng thái này càng sớm càng tốt, chậm nhất là năm 2050 để hạn chế những tác động tiêu cực nhất của biến đổi khí hậu.
Đây chính là những cơ sở cơ bản nhất để các bộ, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội chung thực hiện và hành động để đạt mục tiêu Net Zero. Với ý nghĩa to lớn đó, Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam với sự hỗ trợ, giúp đỡ, tư vấn của Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, dưới sự đồng hành của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường; Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công thương, Tổng cục Lâm nghiệp, Trung tâm Bảo vệ môi trường và Ứng phó biến đổi khí hậu đã xây dựng kế hoạch và tổ chức chuỗi sự kiện “Cộng đồng và doanh nghiệp với Quy định giảm phát thải khí nhà kính và cơ chế carbon”.
Theo TS. Nguyễn Linh Ngọc - Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam: “Biến đổi khí hậu đã và đang là một trong những vấn đề nghiêm trọng, không chỉ Việt Nam mà toàn thế giới đang phải gánh chịu. Có thể nhận thấy những tác động mà biến đổi khí hậu đem lại đang khá tiêu cực, ảnh hưởng đến thiên nhiên, thời tiết, đời sống kinh tế và xã hội. Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với toàn nhân loại trong thế kỉ 21.
Phát thải ròng bằng “0” là mục tiêu không thể trì hoãn. Các nhà khoa học đã chứng minh, chúng ta cần phải đưa thế giới về trạng thái này càng sớm càng tốt, chậm nhất là năm 2050 để hạn chế những tác động tiêu cực nhất của biến đổi khí hậu. Để giải quyết những thách thức này, Chính phủ Việt Nam đã ban hành khung hành lang pháp lý nhằm thực hiện đồng bộ các giải pháp và đưa ra những chiến lược, mục tiêu trong tương lai, cụ thể: Như ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone; quyết định số 01/QĐ-TTG về các danh mục, lĩnh vực, các cơ sở phát thải phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính; quyết định số 896 về phê duyệt Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050…”
“Đây chính là những cơ sở cơ bản nhất để các bộ, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội chung thực hiện và hành động để đạt mục tiêu Net Zero”, TS Nguyễn Linh Ngọc cho biết thêm.
Chuyên đề 1 với chủ đề: "Trách nhiệm cộng đồng và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050" tổ chức ngày 14/12/2022 là Diễn đàn để các bộ, ban, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp chia sẻ các quy định pháp luật liên quan của các cơ quan quản lý nhà nước, sự kiện đã thu hút được sự quan tâm và phản hồi của nhiều tổ chức, doanh nghiệp trên cả nước. Đồng thời giúp tuyên truyền chủ chương định hướng, chính sách pháp luật của đất nước và cùng đưa ra các kế hoạch hành động nhằm giảm phát thải khí nhà kính góp phần cùng thực hiện mục tiêu Net Zero mà đất nước đang hướng đến, lộ trình giảm phát thải khí carbon.
Chia sẻ về vấn đề này, ông Lương Quang Huy, Trưởng phòng Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone (Cục Biến đổi khí hậu) cho biết, theo Nghị định 06/2022-NĐ-CP và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, có 3 điều về ứng phó với biến đổi khí hậu giao Chính phủ quy định chi tiết về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Theo đó, mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Trong đó, lộ trình chia theo 2 giai đoạn từ nay đến hết năm 2025 và từ năm 2026 đến hết năm 2030. Từ năm 2026 đến hết năm 2030 sẽ thực hiện các biện pháp thực hiện giảm nhẹ phát thải theo kế hoạch.
Để thực hiện các quy định trên, hơn 1.900 doanh nghiệp (thuộc các ngành công thương, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường) sẽ phải cung cấp số liệu hoạt động, thông tin liên quan phục vụ kiểm kê khí nhà kính của cơ sở của năm trước kỳ báo cáo theo hướng dẫn của bộ quản lý lĩnh vực trước ngày 31/3/2023.
Tiếp đó, các doanh nghiệp tổ chức thực hiện kiểm kê, xây dựng báo cáo kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở định kỳ hai năm một lần cho năm 2024 trở đi gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước ngày 31/3/2025 để thẩm định; hoàn thiện báo cáo kết quả gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường trước ngày 1/12 của kỳ báo cáo bắt đầu từ năm 2025.
Ngày 23/12/2022, Hội Nước sạch và môi trường Việt Nam tiếp tục tổ chức Chuyên đề 2 với nội dung “Thách thức và cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam trong thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” là Diễn đàn chuyên sâu về phương pháp và cách thức thực hiện kiểm kê khí nhà kính; phân tích những hiệu quả khi chuyển đổi năng lượng sử dụng tại các cơ sở; đồng thời mở ra một tiềm năng phát triển mới đó là thị trường carbon và carbon tại rừng.
Theo TS. Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình triển khai những quan điểm, chủ trương, định hướng và các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu vì sự phát triển bền vững của chính bản thân doanh nghiệp và sự phát triển bền vững đất nước. 03 vấn đề then chốt bao gồm thể chế, quản trị, tài chính và công nghệ. Đây vừa là thách thức, nhưng cũng là cơ hội đối với doanh nghiệp:
Thứ nhất, về thể chế. Chính sách, pháp luật của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến các ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Việc hoàn thiện thể chế cần tiếp tục được quan tâm, chú trọng với sự tham gia tích cực của các bên liên quan, trong đó có các hiệp hội, doanh nghiệp và người dân. Hội thảo có bàn về phát triển thị trường carbon, điều này có nêu trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, nhưng cần phải cụ thể hóa để tăng tốc lộ trình phát triển thị trường này, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, lãnh đạo các địa phương, các chuyên gia kinh tế, xã hội, cộng đồng khoa học, công nghệ và doanh nghiệp cần cùng nhau tìm cách tiếp cận mới hơn, phương thức thực thi hiệu quả hơn để giải bài toán kinh tế xanh. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp chính là những thành tố cốt yếu thúc đẩy và đảm bảo môi trường xanh, kinh tế xanh và xã hội xanh hướng tới phát triển bền vững, sáng tạo và bao trùm.
Thứ hai, về quản trị, tài chính và công nghệ. Trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm và thay đổi mô hình quản trị thích hợp. Bây giờ chính là thời điểm chúng ta phải cùng nhau tìm giải pháp để tiếp cận và hội tụ nguồn lực, để lan tỏa giá trị, thúc đẩy nhanh chuyển đổi xanh hiệu quả. Để thực hiện được các mục tiêu Net Zero, theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam cần khoảng 86 tỷ USD đến năm 2030 và 370 tỷ USD cho lộ trình chuyển dịch đến năm 2050.
Thứ ba, về hội nhập quốc tế. Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới cũng đồng thời tạo độ mở lớn, mang đến cả cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế trong nước. Làm sao phát huy và tận dụng hiệu quả lợi thế mang lại từ hội nhập và 18 Hiệp định hợp tác thương mại đã ký kết. Làm sao nắm bắt và tranh thủ được sự hỗ trợ của quốc tế trong công cuộc thúc đẩy kinh tế xanh của Việt Nam. Xu thế xanh hóa các nền kinh tế trên thế giới là xu thế tất yếu, do đó, quá trình hội nhập sâu rộng của Việt Nam cũng sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức lưu ý xu hướng này để tăng cường hợp tác, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh vì sự phát triển bền vững của doanh nghiệp mình và nền kinh tế đất nước.
Mặc dù Việt Nam cũng giống như các quốc gia khác vừa phải trải qua đại dịch COVID-19 và nhiều lĩnh vực/ngành nghề đều cần thời gian để hồi phục. Cùng với sự phục hồi và phát triển "xanh hóa" nền kinh tế, thì giảm nhẹ phát thải khí nhà kính vừa là mục đích, vừa là biện pháp để ứng phó với biến đổi khí hậu.