Nâng công suất xử lý Nhà máy điện rác Sóc Sơn: Giải pháp hay rủi ro?
Emagazines - Ngày đăng : 10:12, 06/11/2024
Nâng công suất xử lý Nhà máy điện rác Sóc Sơn: Giải pháp hay rủi ro?
Trong bối cảnh lượng rác thải đô thị ngày càng gia tăng, việc tìm ra các giải pháp xử lý rác hiệu quả và bền vững đã trở thành một thách thức đối với các thành phố lớn ở Việt Nam. Một trong những phương án đang được quan tâm là xây dựng Nhà máy điện rác. Đối với Hà Nội, việc đề xuất nâng công suất xử lý của Nhà máy điện rác Sóc Sơn lại nhận được phản ứng mạnh mẽ từ các chuyên gia, nhà khoa học về môi trường.
Đề xuất mở rộng, nâng công suất xử lý
Tại buổi làm việc giữa Đoàn công tác của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội và chủ đầu tư Nhà máy điện rác Sóc Sơn, diễn ra vào ngày 27/8 vừa qua, Đoàn công tác của Ủy ban Nhân dân thành phố thông tin, đề xuất mở rộng Nhà máy điện rác Sóc Sơn nhằm tăng cường khả năng xử lý rác thải cho Thủ đô đang được xem xét.
Cụ thể, theo báo cáo từ Công ty Cổ phần Năng lượng Môi trường Thiên Ý Hà Nội, đơn vị vận hành Nhà máy điện rác Sóc Sơn, mỗi ngày nhà máy tiếp nhận khoảng 5.000 tấn rác thải. Hiện tại, nhà máy đang vận hành 5 lò đốt với công suất 800 tấn/lò/ngày, tương đương xử lý khoảng 4.000 tấn rác/ngày. Để đối phó với lượng rác thải khổng lồ còn lại, công ty đã đề xuất bổ sung thêm hai lò đốt công suất tương tự, nâng tổng số lò đốt lên 7 lò, nhằm tăng cường khả năng xử lý rác thải cho thành phố.
Ngoài ra, với rác thải đã chôn lấp tại Khu liên hợp xử lý chất thải Nam Sơn, công ty đề xuất giải pháp đào và xử lý thêm 6.000 tấn mỗi ngày, trong đó có thể xử lý được 1.700 tấn tại Nhà máy điện rác Sóc Sơn.
Tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Trọng Đông, đã đánh giá cao hiệu quả hoạt động của Nhà máy điện rác Sóc Sơn trong việc giải quyết vấn đề môi trường, đặc biệt là xử lý nước rỉ rác từ bãi rác Nam Sơn. Đồng thời, ông Đông cũng chỉ đạo nhà máy cần tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong việc xử lý tro bay hiệu quả để tránh phát sinh bãi rác mới.
Mặc dù nhận được sự ủng hộ của UBND TP nhưng theo các chuyên gia, việc mở rộng và nâng công suất xử lý của nhà máy này đặt ra nhiều câu hỏi về tính khả thi và hiệu quả lâu dài của dự án. Liệu rằng công nghệ xử lý hiện tại có đáp ứng được khối lượng rác thải khổng lồ khi công suất nhà máy được nâng lên? Các yếu tố về môi trường, sức khỏe cộng đồng và chi phí triển khai liệu đã được xem xét đầy đủ? Đây đều là những vấn đề cần được đánh giá kỹ lưỡng trước khi thực hiện các bước mở rộng.
Nhiều rủi ro tiềm ẩn
Mặc dù có khả năng mang lại những đóng góp tích cực trong việc xử lý rác thải cho thành phố Hà Nội nhưng theo nhận định của các chuyên gia, việc đầu tư, tăng công suất xử lý của Nhà máy điện rác Sóc Sơn vừa xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh hàng ngày, vừa xử lý rác đã chôn lấp cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan đến môi trường, công nghệ, quản lý và chi phí…
Trước tiên, khi nâng công suất xử lý, nhà máy sẽ tiếp nhận một lượng rác thải lớn hơn để chuyển hóa thành năng lượng. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng lượng khí thải từ quá trình đốt rác. Các chất thải này bao gồm:
Thứ nhất, Dioxin và Furan. Đây là các chất độc hại được hình thành trong quá trình đốt cháy rác, đặc biệt là rác thải chứa nhựa. Dioxin và furan có thể tích lũy trong cơ thể sinh vật và gây ra nhiều vấn đề sức khỏe, bao gồm ung thư, rối loạn nội tiết và các bệnh về miễn dịch.
Thứ hai, Oxit Nitơ (NOx) và Oxit Lưu Huỳnh (SOx). Các khí này không chỉ góp phần gây ô nhiễm không khí mà còn có thể tạo ra hiện tượng mưa acid. NOx và SOx có thể gây hại đến sức khỏe con người, đặc biệt là các vấn đề về hô hấp và tim mạch.
Thứ ba, bụi mịn (PM2.5 và PM10). Quá trình đốt rác cũng phát sinh bụi mịn, là một trong những tác nhân chính gây ô nhiễm không khí. Bụi mịn có thể đi sâu vào phổi, gây ra các bệnh về hô hấp và tim mạch, ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến trẻ em và người cao tuổi.
Khi nhà máy thực hiện việc nâng công suất, không khí xung quanh khu vực cũng sẽ bị ô nhiễm nặng nề hơn. Theo báo cáo của các tổ chức y tế, chất lượng không khí xung quanh các nhà máy điện rác thường thấp hơn mức an toàn.
“Không thể phủ nhận những tác động môi trường từ việc đốt rác. Bởi trên thực tế, việc đốt rác vẫn tỏa ra khí thải, nếu đốt càng nhiều thì khí thải độc hại đó sẽ gây ảnh hưởng đến môi trường sống và sức khỏe của người dân cùng nhiều tác hại khác”.
PGS.TS. Lê Văn Hưng – Viện trưởng Viện Nghiên cứu ứng dụng xử lý môi trường
Từ đó, sự gia tăng ô nhiễm không khí từ nhà máy điện rác có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng cho người dân sống xung quanh. Cụ thể, các nghiên cứu chỉ ra rằng, ô nhiễm không khí góp phần làm tăng tỷ lệ mắc bệnh hen suyễn, viêm phế quản và các bệnh hô hấp khác. Người dân có thể gặp phải triệu chứng như ho, khó thở, và đau ngực. Các chất ô nhiễm không khí như bụi mịn cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Ngoài ra, Dioxin và furan, các chất độc hại phát sinh từ quá trình đốt rác, đã được xác nhận là có nguy cơ gây ung thư. Ngoài các vấn đề sức khỏe thể chất, ô nhiễm không khí cũng có thể gây ra các vấn đề tâm lý. Cảm giác lo âu và căng thẳng về sức khỏe có thể gia tăng trong cộng đồng khi họ lo ngại về chất lượng không khí.
Việc gia tăng hoạt động đốt rác không chỉ có thể dẫn đến ô nhiễm không khí mà còn có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nguồn nước. Trong quá trình vận hành, nhà máy điện rác sẽ sản sinh ra một lượng nước thải đáng kể. Nước thải từ quy trình xử lý rác có thể chứa chất hữu cơ chưa phân hủy, gây ra hiện tượng ô nhiễm nước. Các kim loại như chì, cadmium, và thủy ngân có thể xuất hiện trong nước thải, ảnh hưởng đến chất lượng nước và sức khỏe của các sinh vật sống trong môi trường nước. Khi nước thải không được xử lý đúng cách và xả thải ra các nguồn nước như sông, hồ, hoặc kênh rạch, nó có thể dẫn đến ô nhiễm nặng nề.
Tro xỉ và các chất thải còn lại sau quá trình đốt rác có thể chứa các kim loại nặng, ảnh hưởng đến chất lượng đất, nguy cơ gây suy thoái đất.
Ngoài khả năng gây ảnh hưởng đến môi trường không khí, đất và nước, hệ sinh thái xung quanh nhà máy điện rác cũng có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi lẽ, khí thải từ nhà máy có thể làm giảm sự phát triển của cây trồng, dẫn đến việc năng suất nông nghiệp bị ảnh hưởng. Thực vật cũng có thể hấp thụ các chất độc hại, làm giảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Ô nhiễm không khí có thể dẫn đến việc mất đi các loài động thực vật nhạy cảm với điều kiện môi trường xung quanh, điều này có thể làm giảm sự đa dạng sinh học trong khu vực. Bên cạnh đó, các khí nhà kính từ quá trình đốt rác có thể góp phần vào biến đổi khí hậu, gây ra những tác động tiêu cực cho môi trường toàn cầu.
Bên cạnh rủi ro về môi trường còn là rủi ro về công nghệ, quản lý và chi phí đầu tư.
Cụ thể, đối với những rủi ro về công nghệ, Nhà máy điện rác Sóc Sơn sử dụng công nghệ đốt rác phát điện, việc nâng công suất xử lý đồng nghĩa với việc phải nâng cấp về công nghệ, tuy nhiên việc này cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt là trong việc xử lý triệt để các loại rác thải phức tạp và độc hại, các loại rác thải sinh hoạt có tính chất đa dạng. Công nghệ đốt rác thải nếu không kiểm soát tốt có thể tạo ra khí thải độc hại như dioxin, furan – các chất gây ung thư và ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và hạn chế rủi ro môi trường, cần đầu tư công nghệ lọc khí tiên tiến, tốn kém chi phí. Ngoài ra, công nghệ đốt rác phát điện yêu cầu bảo trì liên tục và kỹ thuật cao, do đó rủi ro về lỗi kỹ thuật, sự cố đột xuất có thể làm giảm hiệu quả xử lý hoặc gây gián đoạn hoạt động.
Tiếp theo là những rủi ro về quản lý. Để đảm bảo hoạt động ổn định của nhà máy với công suất lớn, yêu cầu đội ngũ quản lý và vận hành chuyên nghiệp, có kinh nghiệm trong ngành năng lượng và môi trường. Việc thiếu kỹ năng và kiến thức quản lý có thể dẫn đến hiệu suất hoạt động thấp. Cùng với đó, việc phân loại rác tại nguồn ở Việt Nam còn hạn chế. Điều này làm tăng chi phí vận hành, giảm hiệu quả của nhà máy, và có thể dẫn đến quá tải hệ thống. Phần lớn rác thải chưa được phân loại phù hợp làm giảm chất lượng nhiên liệu đốt, ảnh hưởng đến hiệu quả phát điện và tuổi thọ thiết bị. Để tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, nhà máy cũng cần có hệ thống giám sát tự động và báo cáo minh bạch về khí thải, nước thải, nhưng quy trình giám sát và xử lý dữ liệu cần chặt chẽ để đảm bảo không có vi phạm.
Cuối cùng là những rủi ro về chi phí đầu tư. Việc nâng công suất xử lý của nhà máy đòi hỏi chi phí lớn cho việc xây dựng, lắp đặt hệ thống và mua sắm thiết bị hiện đại. Điều này có thể ảnh hưởng đến ngân sách và dẫn đến thâm hụt nếu không có sự hỗ trợ tài chính hợp lý. Ngoài chi phí đầu tư ban đầu, nhà máy cần đối mặt với chi phí vận hành và bảo trì cao để duy trì hiệu quả xử lý rác và phát điện. Việc bảo trì đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao, cần đội ngũ kỹ sư và nhân viên bảo trì có tay nghề. Các yếu tố như biến động giá nhiên liệu, chi phí lao động, chi phí xử lý nước thải, khí thải có thể tăng cao hơn dự kiến, gây áp lực lên hoạt động tài chính của nhà máy và ảnh hưởng đến tính khả thi lâu dài.
“Điện rác tạo ra lượng phát thải nhà kính. Rác thải nếu đốt sẽ tạo ra tro bay, bụi mịn và các khí độc hại, đặc biệt là trong giai đoạn khởi động, tắt hoặc nhà máy gặp sự cố. Mặt khác, sau khi đốt, phần tro xỉ còn sót lại cũng trở thành rác thải nguy hại và khó xử lý triệt để. Bên cạnh đó, điện rác còn gây ra những thương tổn mang tính xã hội. Theo báo cáo của Liên minh toàn cầu về các giải pháp thay thế lò đốt (GAIA), điện rác là phương thức xử lý rác thải tạo ra ít việc làm nhất so với các phương pháp như xử lý hữu cơ, tái chế, tái sản xuất hay sửa chữa đồ cũ. Những ô nhiễm mà lò đốt rác gây ra, về lâu dài cũng tạo ra những tác hại mà đối tượng chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất chính là khu vực dân cư sinh sống trong khu vực xử lý rác thải và cộng đồng có thu nhập thấp.”
Bà Quách Thị Xuân, điều phối viên của Liên minh Không rác Việt Nam (VZWA)
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã và đang vận hành hệ thống nhà máy điện rác, tuy nhiên các quốc gia này không phủ nhận những bất cập của phương thức xử lý đốt rác để thu hồi năng lượng.
Tại Singapore, 4 nhà máy điện rác chịu trách nhiệm xử lý tới 37% tổng lượng rác thải nhưng chỉ đáp ứng được 2% nhu cầu điện năng cho toàn đất nước. Bộ Môi trường và bền vững Singapore đã phải tuyên bố, đốt rác không phải là giải pháp bền vững và quyết định ngừng xây các nhà máy điện rác mới. Tại Mỹ, đốt rác cũng được nhận định là phương thức tạo ra năng lượng đắt đỏ nhất.
Cần cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng
Trước những rủi ro tiềm tàng có thể mang lại khi tiến hành nâng công suất xử lý nhà máy điện rác Sóc Sơn, các chuyên gia đều nhận định rằng, cần cân nhắc và tính toán thật kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định.
PGS.TS. Lê Văn Hưng – Viện trưởng Viện Nghiên cứu ứng dụng Xử lý môi trường đưa ra khuyến nghị, việc nâng công suất xử lý của Nhà máy điện rác Sóc Sơn cần được tiến hành hết sức cẩn trọng, với một quy trình đánh giá tác động môi trường (ĐTM) chi tiết và kỹ lưỡng.
Theo tôi, quá trình đánh giá tác động môi trường của Nhà máy điện rác Sóc Sơn nên được xem xét cẩn thận cả trước và sau khi quyết định nâng cấp để có thể xác định rõ tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Bởi nếu không, nó sẽ gây ảnh hưởng đến rất nhiều mặt.
PGS.TS. Lê Văn Hưng – Viện trưởng Viện Nghiên cứu ứng dụng Xử lý môi trường
“Cụ thể, cần xem xét khả năng thích ứng và hiệu quả của công nghệ hiện có khi tăng công suất, đồng thời đảm bảo không gây ô nhiễm thêm cho môi trường. Cần tiến hành đánh giá năng lực và quy trình quản lý của nhà máy để đảm bảo rằng họ có khả năng giám sát, vận hành tốt ở quy mô mới. Đồng thời, cần tính toán chi phí đầu tư và vận hành, bảo đảm rằng quá trình nâng cấp không chỉ hiệu quả mà còn khả thi về mặt tài chính.” - PGS.TS. Lê Văn Hưng nhấn mạnh.
Theo PGS.TS Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển cộng đồng, dù đề xuất nâng công suất xử lý cũng là tốt và mặc dù Nhà máy điện rác Sóc Sơn hoạt động và đã phần nào mang lại những kết quả ban đầu nhưng vẫn nên đánh giá lại tác động môi trường, đặc biệt là về công nghệ và nhiệt độ đốt trước khi quyết định mở rộng.
PGS.TS Bùi Thị An cũng đề xuất, nên giao cho một nhóm chuyên gia phụ trách việc nghiên cứu và đánh giá này để có thể đưa ra những đề xuất hợp lý nhất, từ đó tham mưu cho UBND TP là nên mở rộng thế nào, nâng công suất ra sao, lựa chọn công nghệ như thế nào. Đó là việc quan trọng đầu tiên cần làm trước khi quyết định đầu tư, mở rộng.
TS. Hoàng Dương Tùng – Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cũng cho rằng, Hà Nội nên cân nhắc kỹ việc cho phép mở rộng công suất xử lý của nhà máy điện rác Sóc Sơn, phải tính toán thật kỹ vì mục tiêu, mục đích môi trường của Hà Nội.
Thông tin về vấn đề những rủi ro có thể xảy ra xung quanh đề xuất nâng công suất xử lý của Nhà máy điện rác Sóc Sơn, đại diện Sở Tài nguyên & Môi trường Hà Nội cho biết, nhà máy đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường số 1324/QĐ-BTNMT ngày 28/5/2019; đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp giấy phép môi trường 376/GPMT-BTNMT ngày 27/12/2022 và số 457/GPMT-BTNMT ngày 23/11/2023. Hiện tại, Sở Tài nguyên và Môi trường vẫn thường xuyên giám sát, xác định khối lượng rác tiếp nhận vào nhà máy, giám sát, kiểm soát công tác xử lý nước thải, khí thải phát sinh tại nhà máy.
Đại diện Sở Tài nguyên & Môi trường cũng thông tin thêm, theo quy hoạch xử lý chất thải rắn Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 609/QĐ-TTg-CP ngày 25/4/2014, công suất xử lý đến năm 2050 của khu LHXLCT Nam Sơn là 7.000 tấn/ngày. Hiện nay tại khu xử lý Nam Sơn đã và đang có các dự án bao gồm: (1) Nhà máy điện rác Sóc Sơn đang vận hành công suất trung bình 4.000 tấn/ngày. (2) Nhà máy xử lý chất thải công nghiệp của Công ty Bắc Sơn (công suất hơn 200 tấn/ngày). (3) Nhà máy đốt rác công nghiệp Nedo (công suất 75 tấn/ngày).
Đối với đề xuất mở rộng và nâng công suất nhà máy, UBND TP đã đề nghị Công ty cổ phần năng lượng môi trường Thiên Ý Hà Nội căn cứ quy định của Luật Đầu tư nghiên cứu lập hồ sơ điều chỉnh Dự án gửi cơ quan đăng ký đầu tư để tổ chức thẩm định theo quy định.
Trên cơ sở hồ sơ của nhà đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ chủ trì lấy ý kiến của các Sở ngành về quy mô, công suất, công nghệ và có kết quả thẩm định cuối cùng. Sau đó, căn cứ vào quy mô, công suất, công nghệ đề xuất cụ thể, Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ có ý kiến về các thủ tục môi trường và các quy định, tiêu chuẩn môi trường mà dự án phải thực hiện theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Đại diện Sở Tài nguyên & Môi trường Hà Nội
Điện rác có phải là giải pháp lâu dài?
Điện rác được xem là một giải pháp hữu ích trong việc xử lý rác thải và tận dụng nguồn năng lượng, nhưng để đánh giá liệu nó có thể là giải pháp lâu dài hay không, theo các chuyên gia, cần xem xét kỹ lưỡng cả lợi ích và những hạn chế của phương pháp này.
PGS.TS Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển cộng đồng cho rằng, có rất nhiều giải pháp để xử lý rác thải, việc lựa chọn phương pháp nào cần phải được nghiên cứu một cách tổng thể, không chỉ là điện rác mà còn có thể là tái chế rác, phân loại rác…
“Tôi cho rằng, nên xây dựng một đề án tổng thể về vấn đề xử lý rác thải của Hà Nội theo hướng kinh tế tuần hoàn. Trên cơ sở đó, tôi tin rằng, sẽ tìm được hướng đi phù hợp, chúng ta có thể lựa chọn nơi nào nên đốt rác, nơi nào nên tái chế hay phân loại rác,.. Hoàn toàn có thể linh hoạt vận dụng đa dạng hoặc kết hợp các loại hình xử lý rác sao cho phù hợp với đặc điểm của từng địa phương.”
PGS.TS Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển cộng đồng
“Cụ thể, muốn có được xu hướng tốt thì phải có dự báo tốt. Dự báo dựa trên cơ sở đánh giá thực tiễn lượng rác sẽ tăng thế nào, tăng loại gì, tăng ở phương diện nào, tăng ở đâu… theo sự phù hợp của từng vùng địa lý, từng nền kinh tế. Có được dự báo đúng, chúng ta mới xây dựng được kế hoạch đầu tư, có thể đầu tư theo điện rác hay một hình thức nào khác sao cho phù hợp.” - PGS.TS Bùi Thị An nêu ý kiến.
Còn theo TS. Hoàng Dương Tùng – Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, đốt rác cũng là một giải pháp nhưng không phải là giải pháp tốt nhất.
“Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 cũng đã quy định việc chúng ta nên hạn chế dần việc chôn rác và chuyển sang các công nghệ xử lý khác. Và một trong những biện pháp mà tôi cho rằng là lâu dài và triệt để nhất chính là phân loại rác tại nguồn. Bởi nếu phân loại rác tại nguồn tốt thì chúng ta có thể tận dụng được nhiều rác để tái chế hay biến chúng thành phân vi sinh, như vậy lượng rác vừa có thể giảm xuống còn mang lại nhiều công dụng khác. Ngoài ra, chúng ta cũng còn nhiều hình thức xử lý khác nữa.”
TS. Hoàng Dương Tùng – Chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường
Nhận định về phương pháp đốt rác phát điện, bà Quách Thị Xuân, điều phối viên của Liên minh Không rác Việt Nam (VZWA) cũng cho rằng, bài toán quá tải, ùn ứ ở bãi rác tập trung gây ô nhiễm môi trường có thể được giải quyết mà không cần đến sự xuất hiện của nhà máy điện rác.
Giải pháp tối ưu cho quản lý chất thải rắn là giảm thiểu xả thải, thông qua việc từ chối, giảm thiểu sử dụng khi không cần thiết, thiết kế lại sản phẩm để tránh phát sinh rác thải và tái sử dụng. Đối với lượng rác thải phát sinh sau sử dụng, cần ưu tiên tái chế trở thành đầu vào cho sản xuất, sau đó mới tính đến phương án chôn lấp hoặc đốt, tuy nhiên “tốt nhất là không đốt”.
Bà Quách Thị Xuân, điều phối viên của Liên minh Không rác Việt Nam (VZWA)
“Giải pháp hữu hiệu đối với rác không thể tái chế là giảm thiểu. Hiện nay Việt Nam đang có nhiều chính sách như công cụ trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR); hạn chế đồ nhựa dùng một lần… qua đó lượng rác thải không thể tái chế sẽ ngày càng giảm”, bà Xuân nhận định.
Như vậy, để đảm bảo việc nâng công suất xử lý của Nhà máy điện rác Sóc Sơn là một bước đi đúng đắn, mang lại hiệu quả cao nhất cho việc xử lý rác thải của Hà Nội, các yếu tố như công nghệ xử lý, tác động môi trường và hiệu quả kinh tế phải được đánh giá toàn diện. Chỉ khi có một bức tranh đầy đủ về những lợi ích và rủi ro tiềm ẩn, mới có thể đưa ra quyết định sáng suốt, đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu xử lý rác thải hiện tại, vừa bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường trong tương lai. Điều này không chỉ đòi hỏi đầu tư vào công nghệ mà còn cần có một kế hoạch quản lý và giám sát chặt chẽ để giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực có thể phát sinh.