Mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới là khả thi
Tin trong nước - Ngày đăng : 18:30, 05/12/2025
Mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới là khả thi
Với 42% số xã cơ bản đạt quy định của Bộ Tiêu chí mới giai đoạn 2026-2030 và dự kiến sẽ được công nhận đạt chuẩn trong năm 2026-2027, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới là khả thi.
Sáng 5/12, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, Quốc hội đã thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035. Việc hợp nhất ba chương trình mục tiêu quốc gia hiện hành thành một chương trình tổng thể được đánh giá là bước đột phá về thể chế, giúp khắc phục tình trạng phân tán nguồn lực và chồng chéo ngân sách.
Phiên thảo luận tại Hội trừng đã ghi nhận 31 đại biểu Quốc hội phát biểu và 02 đại biểu tranh luận, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của các đại biểu đối với nội dung quan trọng này. Cuối phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng giải trình chi tiết, làm rõ thêm nhiều vấn đề đại biểu Quốc hội còn băn khoăn.
Tích hợp 3 chương trình để giảm nghèo đa chiều
Về chủ trương tích hợp ba chương trình thành một, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết đa số đại biểu Quốc hội đồng tình với việc này nhằm khắc phục các tồn tại, hạn chế của giai đoạn trước. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến băn khoăn lo ngại việc sáp nhập có thể sẽ làm giảm chính sách, giảm nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng khẳng định chủ trương sáp nhập ba chương trình thể hiện quyết tâm thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước, “làm cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”.

Để làm rõ cam kết này, Chính phủ nhấn mạnh ba điểm quan trọng, đó là ngoài các mục tiêu chung, chương trình sẽ tập trung ưu tiên xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Nâng cao hiệu quả thực thi, tránh chồng chéo, trùng lặp chính sách, đồng thời phân cấp phân quyền triệt để cho địa phương; Kéo dài thời gian hỗ trợ đến năm 2035 (thay vì năm 2030 như chương trình hiện hành) để tập trung được nguồn lực dài hạn, đồng bộ và hiệu quả hơn.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh, “việc tích hợp không làm giảm chính sách, không thu hẹp phạm vi hỗ trợ mà tạo điều kiện tập trung và ưu tiên hơn cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - khu vực hiện nghèo của cả nước”.
Trước ý kiến nhiều đại biểu băn khoăn về cơ sở xác định các mục tiêu, đề nghị Chính phủ làm rõ tính khả thi, sự phù hợp với nguồn lực và bối cảnh giai đoạn 2026-2030, tránh đặt mục tiêu quá rộng. Về mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong khi giai đoạn 2021-2025 cả nước đã đạt gần 80%, Bộ trưởng cho biết, theo kết quả rà soát của các địa phương, sau sáp nhập, cả nước có khoảng 65,6% số xã có khả năng đạt chuẩn nông thôn mới theo tiêu chí giai đoạn 2021-2025. Tuy nhiên, Bộ Tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2026-2030 sẽ được ban hành trong tháng 12 năm 2025 theo hướng kế thừa, bổ sung và nâng cao Bộ Tiêu chí giai đoạn 2021-2025.
Theo rà soát của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay, có khoảng 42% số xã cơ bản đạt quy định của Bộ Tiêu chí mới giai đoạn 2026-2030 và dự kiến sẽ được công nhận đạt chuẩn trong năm 2026-2027. Số xã còn lại (khoảng 25%), chủ yếu ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, sẽ được tập trung ưu tiên nguồn lực để đạt nông thôn mới đến năm 2030. “Như vậy, mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới là khả thi”, Bộ trưởng khẳng định.
Về mục tiêu tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì giảm từ 1-1,5%/năm và 100% xã nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo, Chính phủ báo cáo đây là mục tiêu được khẳng định tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Chỉ thị số 05 của Ban Bí thư khóa XIII. Về thực tế, dự kiến tỉ lệ hộ nghèo chuẩn đa chiều đến cuối năm 2025 còn khoảng 0,9 đến 1%, với mức giảm bình quân trên 1% năm trong giai đoạn 2021-2025. Dự kiến tỉ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2026-2030 còn khoảng 9,6% (tương đương với giai đoạn 2022-2025). Bộ trưởng cho rằng, “mục tiêu trên là phù hợp với chủ trương của Đảng, kết quả thực tiễn và có tính khả thi trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ta trong giai đoạn 2026-2030”.
Cơ cấu nguồn vốn: Cân đối Trung ương và trách nhiệm địa phương
Về nguồn vốn đầu tư cho chương trình, hai vấn đề lớn được đại biểu quan tâm là mức bố trí vốn ngân sách Trung ương (100.000 tỷ đồng) là thấp trong khi quy định vốn đối ứng của địa phương (400.000 tỷ đồng) là quá lớn, vượt khả năng cân đối của các địa phương, nhất là các địa phương khó khăn. Trước vấn đề đại biểu nêu, Chính phủ đồng tình với ý kiến đại biểu rằng mức vốn ngân sách Trung ương trước mắt bố trí 100.000 tỷ đồng là hạn chế, đặc biệt khi chương trình có phạm vi quy mô địa bàn bao phủ cả nước, gần như toàn bộ các nội dung về phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, trong đó ưu tiên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, Bộ trưởng làm rõ, trong giai đoạn 2026-2030, bên cạnh chương trình này còn bốn chương trình mục tiêu quốc gia khác cùng triển khai trên địa bàn. Cùng với đó là các nguồn vốn khác như: Chương trình phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình bố trí ổn định dân cư vùng miền núi, địa bàn khó khăn (đã được đưa vào dự thảo Nghị quyết Đại hội XIV); Vốn tín dụng chính sách xã hội, vốn tín dụng thương mại đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Vốn của các doanh nghiệp và huy động đóng góp tự nguyện của cộng đồng người dân. Ghi nhận ý kiến các đại biểu, Bộ trưởng cam kết, “để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình trong quá trình điều hành, Chính phủ sẽ tiếp tục cân đối ngân sách Trung ương để báo cáo Quốc hội ưu tiên bổ sung phù hợp với điều kiện thực tế”.

Về tổng mức vốn ngân sách địa phương 400.000 tỷ đồng, Bộ trưởng giải trình đây là tổng vốn ngân sách địa phương hai cấp của 34 tỉnh, thành phố bố trí cho chương trình (gồm 7 địa phương tự cân đối và 27 địa phương nhận hỗ trợ từ ngân sách Trung ương). Đây là nguồn vốn chủ lực, phản ánh vai trò chủ động và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương. Dẫn chứng từ giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng cho biết trong tổng số gần 300.000 tỷ đồng vốn địa phương bố trí thực hiện ba CTMTQG, vốn của 16 tỉnh thành phố tự cân đối ngân sách chiếm khoảng 65%. Đặc biệt, Chính phủ đã có quy định phù hợp về tỉ lệ vốn đối ứng của các địa phương. Đối với các địa phương khó khăn, tỉ lệ vốn đối ứng chỉ khoảng 5% so với vốn từ ngân sách Trung ương hỗ trợ.
Bộ trưởng cho biết Chính phủ sẽ tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội cùng các đại biểu Quốc hội, tiếp tục rà soát cân đối để xác định mức vốn ngân sách của các địa phương cho phù hợp nhất.
Rõ đầu mối, rõ trách nhiệm trong cơ chế quản lý và phân cấp
Về nguyên tắc và tiêu chí phân bổ vốn, Chính phủ cam kết tiêu chí sẽ được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo hai nội dung chính: Tập trung ưu tiên phân bổ cao nhất cho địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với các địa bàn khác; Địa phương sẽ quyết định và tự chịu trách nhiệm phân bổ chi tiết đến nội dung dự án, nhiệm vụ cụ thể để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của chương trình.
Bộ trưởng giải trình, nguyên tắc hợp nhất là kế thừa, ổn định, không gián đoạn, không bãi bỏ chính sách đang phát huy hiệu quả, chỉ rà soát sắp xếp lại theo hướng trọng tâm, rõ địa bàn, đối tượng, trách nhiệm.
Chương trình được thiết kế thành hai hợp phần rõ ràng: Hợp phần chung thực hiện trên phạm vi cả nước; Hợp phần đặc thù dành riêng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mỗi nhiệm vụ cụ thể chỉ bố trí ở một hợp phần trên nguyên tắc rõ nội dung, rõ nguồn lực, rõ thụ hưởng, đồng thời rà soát với các CTMTQG khác để không trùng lặp đầu tư, không bỏ sót xã nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn.
Về việc ban hành văn bản hướng dẫn, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì phối hợp với Bộ Dân tộc và Tôn giáo và các bộ ngành liên quan thống nhất trình ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai chương trình, đảm bảo đồng bộ, rõ ràng về nội dung ngay sau khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư. Dự kiến chậm nhất là trong tháng 1 năm 2026 sẽ ban hành đầy đủ.
Đối với băn khoăn về việc bỏ sót địa bàn đối tượng và kiến nghị về quy định chuyển tiếp, chương trình tích hợp đã kế thừa đầy đủ chính sách và kết quả đạt được, bảo đảm người dân tiếp tục được thụ hưởng đầy đủ, đặc biệt tập trung ưu tiên cho địa bàn xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Chính phủ cũng đã chuẩn bị kỹ lưỡng về cơ sở pháp lý như ban hành Nghị định về phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026-2030, chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030 và bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp, bảo đảm khi chương trình triển khai sẽ không bị khoảng trống về pháp lý, chính sách được chuyển tiếp thông suốt.
Đa số đại biểu tán thành giao một cơ quan làm chủ chương trình. Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan chủ chương trình, chịu trách nhiệm tổng hợp báo cáo và giải trình chung. Các bộ ngành khác chủ trì nội dung gắn với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đồng thời chịu trách nhiệm giải trình. Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ nghiên cứu báo cáo Chính phủ xem xét phân định nhiệm vụ giữa các bộ ngành, nhất là Bộ Dân tộc và Tôn giáo với nguyên tắc cao nhất là hoàn thành được các mục tiêu của chương trình đặt ra.
Về phân cấp, phân quyền, chương trình được thiết kế theo tinh thần phân quyền tối đa cho địa phương, đi đôi với phân bổ nguồn lực trên nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương giữ vai trò quản lý, ban hành cơ chế, tăng cường kiểm tra giám sát. Cơ chế giám sát cũng được thiết lập ba cấp (Trung ương, Tỉnh, Xã), phát huy vai trò chủ thể của người dân trong giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình của chính quyền các cấp.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định tiếp thu các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các vị đại biểu Quốc hội và cam kết sẽ chỉ đạo quyết liệt việc ban hành chính sách và tổ chức thực hiện ngay sau khi chương trình được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư.

Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh, các đại biểu phát biểu sôi nổi, tâm huyết, chất lượng, thẳng thắn, ngắn gọn, đa chiều sát thực tiễn, đi thẳng vào vấn đề, với tinh thần xây dựng và trách nhiệm cao. Qua thảo luận, nhiều ý kiến đánh giá cao việc tích hợp 3 Chương trình mục tiêu quốc gia thành một Chương trình của giai đoạn 2026 – 2035. Đây là bước đổi mới quan trọng thể hiện cách tiếp cận tích hợp đa chiều, khắc phục tình trạng manh mún, trùng lặp, nâng cao hiệu quả đầu tư công, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển.
Các đại biểu Quốc hội cũng tán thành với nhiều nội dung tại Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Hội đồng dân tộc của Quốc hội. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng đã tiếp thu, báo cáo giải trình làm rõ một số ý kiến của đại biểu Quốc hội.
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo lưu ý việc hợp nhất để giải quyết những tồn tại, hạn chế của giai đoạn trước, bảo đảm không làm gián đoạn, ảnh hưởng đến chương trình. Cần rà soát kỹ đối tượng, địa bàn, bảo đảm không bỏ sót, không trùng lặp đầu tư trong nội bộ Chương trình và với các Chương trình mục tiêu quốc gia khác, quan tâm hộ nghèo, hộ người Kinh ở vùng đồng bào dân tộc tiểu số.
Đại biểu đề nghị giao cho một cơ quan chủ chương trình, nhưng cũng làm rõ trách nhiệm của các cơ quan phối hợp, cũng như cơ quan chủ chương trình, nâng cao trách nhiệm giải trình. Nhiều đại biểu cũng đề nghị Chính phủ quan tâm giao cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về công tác dân tộc chủ trì, triển khai nội dung của Hợp phần 2, liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Chính phủ chỉ đạo sớm hoàn thiện, ban hành các bộ tiêu chí về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, bảo đảm khách quan, khoa học, phù hợp với thực tiễn vùng, miền. Phân cấp, phân quyền, minh bạch, bảo đảm rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền, gắn với nguồn lực cho địa phương tổ chức thực hiện. Chính phủ nghiên cứu phân cấp cho địa phương trong việc lựa chọn và quyết định các hoạt động cụ thể, tránh quyết định quá chi tiết, không phù hợp với thực tiễn và làm rõ vai trò của chính quyền địa phương cấp xã trong tổ chức thực hiện.
Các đại biểu cũng đề nghị rà soát mục tiêu tổng quát, các nhóm mục tiêu cụ thể và lượng hóa mục tiêu bảo đảm khả thi, phù hợp với nguồn lực và bối cảnh của giai đoạn 2026 – 2030, tránh mục tiêu quá rộng, quá cao, mâu thuẫn với nguồn lực được bố trí; quan tâm chỉ tiêu về thu nhập của người dân tộc thiểu số, đầu tư kết cấu hạ tầng, giải quyết đất ở, đất sản xuất, đất sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số, di dời dân cư khỏi vùng có nguy cơ sạt lở cao...
Nhiều đại biểu đề nghị làm rõ căn cứ tính toán cơ cấu nguồn vốn và tăng bố trí ngân sách trung ương, nhất là cho Hợp phần 2 và khả năng huy động; có các cơ chế huy động, bảo đảm nguồn lực thực hiện. Ưu tiên bố trí nguồn lực cho vùng khó khăn, vùng lõi nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm hiệu quả. Cân nhắc khả năng bố trí vốn đối ứng của địa phương và huy động từ cộng đồng đối với các địa phương khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và và miền núi, cần quy định tỉ lệ vốn đối ứng phù hợp. Có cơ chế quản lý điều hành, giám sát, giám sát cộng đồng phù hợp để kiểm soát rủi ro, tránh dàn trải và đảm bảo đầu tư hiệu quả, trọng tâm, trọng điểm, chống thất thoát, lãng phí.
Cùng với đó, kế thừa, phát huy kết quả đã triển khai, có phương án xử lý chuyển tiếp phù hợp đối với các dự án đang triển khai của 3 Chương trình mục tiêu hiện hành; đề xuất cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân. Làm rõ phạm vi, quy mô vốn cần kéo dài; có giải pháp, cơ chế kiểm soát để khắc phục tình trạng chậm giải ngân. Chính phủ cần khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn và sửa đổi các văn bản hướng dẫn quy định chi tiết...
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh khẳng định, các ý kiến của đại biểu Quốc hội phát biểu tại tổ, cũng như tại hội trường sẽ được tổng hợp đầy đủ gửi Chính phủ chỉ đạo Cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với Cơ quan chủ trì thẩm tra, các cơ quan liên quan tiếp thu, giải trình đầy đủ, thấu đáo tất cả các ý kiến của đại biểu Quốc hội để hoàn thiện hồ sơ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua.
.png)