Theo đó, thông tư quy định, các Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, cơ sở giáo dục ĐH, cơ sở đào tạo giáo viên tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong quản lý, cấp phát văn bằng, chứng chỉ theo phân cấp, theo quy định của pháp luật và quy định của Bộ trưởng GD&ĐT.
So với Thông tư 19 năm 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo bổ sung một trường hợp thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ là “do lỗi của cơ quan có thẩm quyền”.
Thông tư 21 của Bộ GD&ĐT vừa ban hành quy định Quy chế quản lý bằng tốt nghiệp THCS, THPT.
Sáu trường hợp bị thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ gồm: Do hành vi gian lận trong tuyển sinh, học tập, thi cử, bảo vệ đồ án, khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án hoặc gian lận trong việc làm hồ sơ để được cấp văn bằng, chứng chỉ; cấp cho người không đủ điều kiện; do người không có thẩm quyền cấp; bị tẩy xóa, sửa chữa; để người khác sử dụng; do lỗi của cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ.
Thông tư cũng ghi rõ, cơ sở giáo dục ĐH tự chủ thiết kế mẫu, in phôi văn bằng giáo dục đại học. Cơ sở đào tạo giáo viên in phôi bằng tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng theo mẫu do Bộ GD&ĐT quy định và được bổ sung thêm biểu tượng, hoa văn in trên văn bằng.
Bằng tốt nghiệp THCS do trưởng phòng GD&ĐT cấp; bằng tốt nghiệpTHPT do giám đốc sở GD&ĐT cấp; bằng tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng sư phạm do người đứng đầu cơ sở đào tạo giáo viên đó cấp; văn bằng giáo dục ĐH do giám đốc, hiệu trưởng, viện trưởng… cấp văn bằng ở trình độ tương ứng cấp.
Nội dung ghi trên bằng tốt nghiệp THCS, THPT, TCSP, CĐSP và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân theo mẫu do Bộ trưởng GD&ĐT ban hành. Ngôn ngữ ghi trên văn bằng, chứng chỉ là tiếng Việt. Nếu văn bằng, chứng chỉ có ghi thêm tiếng nước ngoài thì phải được ghi chính xác và phù hợp nội dung tiếng Việt, kích cỡ chữ nhỏ hơn chữ tiếng Việt.
Thông từ này sẽ có hiệu lực từ ngày 15/1/2020.
Mai Anh (t/h)