Sơ đồ minh hoạ vòng tuần hoàn quản lý nước của Singapore
Lại một lần nữa các nhà lãnh đạo Singapore nung nấu quyết tâm giành độc lập về nguồn nước khi đảo quốc này tách ra khỏi liên bang Mã Lai vào cuối tháng 8 năm 1965. Khi ấy Thủ tướng Malaysia, ông Tunku Abdul Rahman, tuyên bố với cao uỷ Anh tại Singapore rằng: “Nếu Singapore không làm theo ý tôi, tôi sẽ khóa van dẫn nước”.
Lòng khát khao độc lập đó đã khiến Singapore luôn luôn đặt vấn đề nước vào vị trí trung tâm trong các chính sách phát triển quốc gia.
Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, nước vẫn là vấn đề sống còn của Singapore trên tiến trình phát triển. Tuy nhiên, người dân Singapore ngày nay có thể tự tin nói rằng chỉ cần với tay mở khóa vòi nước, họ đã có đủ nước dùng cho nhu cầu công nghiệp và dân sinh được cấp từ 4 nguồn mà người dân Singapore gọi là “bốn vòi nước quốc gia” (four national water taps) và một phần ba nhập khẩu từ Malaysia. Đây thực sự là con số ấn tượng vì chúng ta biết trước đây Singapore gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nước nhập khẩu.
Dưới sự dàn xếp của người Anh, Singapore đã ký với Malaysia hai hiệp ước song phương riêng rẽ về việc nhập nước. Hai thỏa thuận này sẽ hết hiệu lực lần lượt vào năm 2011 và năm 2061. Chính phủ Singapore có vẻ cũng đã đủ tự tin vào việc tự cấp nguồn nước cho mình vì họ không ký lại hiệp ước hết hạn năm 2011.
Bốn thập kỷ trước đây thật khó hình dung có ngày nước thu từ nguồn thiên nhiên (nước mưa, sông, suối…) cung cấp khoảng một nửa nhu cầu nước của Singapore. Ngày nay, phân nửa diện tích đất Singapore đã trở thành khu vực thu nước thiên nhiên với hệ thống ống dẫn riêng biệt tách khỏi hệ thống nước thải. Với 15 hồ chứa nước ngọt rộng nhất là 10.000 ha và hơn 7000 kênh dẫn thu nước tự nhiên tách đường dẫn nước thải và hai bể chứa nữa hoàn thành năm 2009, diện tích khu vực thu nước sẽ chiếm đến hai phần ba diện tích Singapore.
Một phần quan trọng trong quá trình giành “độc lập về nguồn nước” là Newater theo cách gọi của người Singapore. Thực ra, Newater chẳng qua là nước “siêu tinh khiết” có được từ hệ thống nhà máy lọc nước thải. Nhờ các kỹ thuật lọc qua màng hiện đại, Newater đạt các tiêu chuẩn tinh khiết cao hơn hẳn nước máy ở Singapore vốn đã đạt tiêu chuẩn nước uống.
Nhờ độ tinh khiết của mình, Newater được các nhà kỹ nghệ sử dụng công nghệ cao ưa chuộng, như trong ngành công nghiệp điện tử và dệt nhuộm.
Cũng quan trọng không kém là kỹ thuật lọc nước biển để có nước ngọt với quy mô lớn. Singapore đã xây dựng nhà máy lọc nước biển Singspring và Tuaspring với công đáp ứng được 10% nhu cầu nước của đảo quốc này. Với vốn đầu tư khoảng 200 triệu đô la Singapore (khoảng 147 triệu đô la Mỹ), đây là nhà máy lớn nhất trong khu vực. Trong tương lai gần, đảo quốc này dự kiến xây thêm 4 nhà máy lọc nước biển để có thể đáp ứng được 20% nhu cầu tiêu dùng nước ngọt cho mọi hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước.
Nhưng theo PUB (Public Utilities Board), cơ quan quản lý nguồn nước quốc gia Singapore, tạo và quản lý tốt nguồn cung cấp nước chỉ là một vế của phương trình nước. Vế còn lại, quản lý nhu cầu sử dụng nước, cũng quan trọng không kém.
Trong bản báo cáo của mình, tiến sĩ Cecilia Tortajada, Phó giám đốc Trung tâm Quản lý Nước Thế giới thứ ba (Third World Center for Water Management) có trụ sở ở Mexico, cho rằng Singapore “thực hiện chính sách quản lý việc sử dụng nước một cách toàn diện đã được tính toán kỹ lưỡng”. Đó là việc Chính phủ Singapore đưa ra các kế hoạch khác nhau nhằm khuyến khích công dân của mình tiết kiệm nước.
Nâng cao chất lượng quản lý và sử dụng tiết kiệm nguồn nước, xây dựng ý thức tự quản và thực hành tiết kiệm cho mỗi người dân. Chính phủ thực hiện nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động mỗi người dân nâng cao ý thức về sự cần thiết phải thực hành tiết kiệm nước hàng ngày. Việc tiết kiệm nước được thực hiện hằng hành động cụ thể diện ra ở mọi lúc mọi nơi.
Một phần của các kế hoạch này là việc sử dụng cách tính giá nước lũy tiến. Tuy chuyện này cũng chẳng xa lạ gì đối với Việt Nam, cách tính của người Singapore có vài khác biệt. Chẳng hạn, thay vì Singapore vẫn áp dụng ba mức giá khác nhau cho tiêu thụ nước sinh hoạt gia đình: từ 1 đến 20 mét khối, 20-40 mét khối và trên 40 mét khối (TPHCM cũng đang áp dụng cách làm này) như trước. Tháng 7 năm 2000, Singapore chỉ còn 2 mức giá: từ 1-40 mét khối/ hộ với giá ở mức 1 là 1,17 SGD (đôla Singapore và trên 40 mét khối/ hộ mức 2 là 1,4 SGD, chưa kể thuế và phí. Cuộc vận động, tuyên truyền thực hành tiết kiệm nước trên toàn quốc nhanh chóng thu được kết quả khả quan. Số liệu điều tra, thống kê hàng năm của chính phủ về thực trạng tiêu dùng nước cho thấy: vào cuối những 90 của thế kỷ XX, mỗi người dân Singapore sử dụng hết 176 lít nước một ngày. Đến năm 2003, con số này đã giảm xuống 165 lít/người/ngày, năm 2008 còn 162 lít/người/ngày, năm 2012 chỉ còn 155 lít/người/ngày. Singapore đã giảm được tỷ lệ thất thoát nước về mức thấp nhất (khoảng 4,6%, bằng với Nhật Bản). Thuế bảo vệ nguồn nước nhằm thúc đẩy việc tiết kiệm nước, còn phí sử dụng nước là công cụ giúp chính phủ trang trải phí tổn xây dựng bảo trì các hệ thống xử lý nước thải.
Chính phủ Singapore cũng xoá bỏ luôn sự sai biệt về giá cho khu vực nước sinh hoạt và công nghiệp. Từ năm 2000, giá thống nhất cho 1 mét khối nước sử dụng là 1,17 đô la Singapore. Nếu sử dụng trên 40 mét khối nước sinh hoạt, khách hàng phải trả 1,4 đô la Singapore.
Ngoài cách tính giá nước lũy tiến, Singapore còn áp dụng hai loại thuế và phí đánh lên lượng nước tiêu thụ: thuế bảo vệ nguồn nước (water conservation tax) và phí sử dụng nước (water-borne fee) với giá 30 xu/m3 nước tiêu thụ. Với các lãnh đạo Singapore việc tính đúng, tính đủ giá thành của nước cũng như áp dụng các sắc thuế đã làm giảm đáng kể lượng nước tiêu thụ tại đảo quốc này, trong hộ gia đình cũng như toàn nền kinh tế.
Ngoài ra, chính phủ có chính sách khuyến khích các nhà khoa học, các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc vào công cuộc bảo vệ, phát triển nguồn nước. Hàng năm, Chính phủ Singapore tổ chức “tuần lễ quốc tế nước”, trao “giải thưởng Lý Quang Diệu về nước” cho cá nhân và tổ chức đóng góp xuất sắc trong việc giải quyết vấn đề nước trên toàn cầu.
Những chính sách này góp phần động viên những nỗ lực của toàn cầu trong nhiều năm qua trong việc đồng hành cùng chính phủ kiên trì thực hiện quốc kế nước sạch. Bởi với họ độc lập về nước cũng quan trọng không kém độc lập dân tộc.