Nước thải sinh hoạt – điểm nghẽn lớn trong hành trình hướng tới đô thị xanh
Việc xử lý nước thải sinh hoạt vẫn là bài toán nan giải trong công tác quản lý môi trường đô thị tại Việt Nam. Dù hành lang pháp lý đã được thiết lập tương đối đầy đủ, song công tác triển khai vẫn gặp nhiều trở ngại, đặc biệt là trong huy động nguồn lực xã hội và hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ. Đây là những yếu tố then chốt quyết định hiệu quả bảo vệ môi trường đô thị.
Tại phiên thảo luận về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường giai đoạn 2022–2024, nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ sự lo ngại trước thực trạng tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt chuẩn còn quá thấp. Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã tạo hành lang pháp lý khá toàn diện, song quá trình triển khai vẫn tồn tại nhiều điểm nghẽn, đặc biệt là trong huy động nguồn lực xã hội và hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ.
Đại biểu Lê Đào An Xuân (Đắk Lắk) cho biết, theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đạt chuẩn phải đạt trên 50% với các đô thị loại II trở lên và khoảng 20% đối với các đô thị còn lại. Tuy nhiên, đến cuối năm 2024, con số thực tế mới đạt khoảng 18%, trong khi nhiều nhà máy xử lý nước thải hiện có chỉ vận hành khoảng 50% công suất thiết kế.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2030, Bộ Xây dựng ước tính cần nguồn vốn từ 250.000 – 300.000 tỷ đồng, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Vì vậy, theo bà Xuân, việc huy động các nguồn lực ngoài ngân sách là xu hướng tất yếu.

Mặc dù loại hình dự án xử lý nước thải sinh hoạt đã được đưa vào danh mục ưu tiên của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), nhưng sự tham gia của khu vực tư nhân vẫn còn rất hạn chế, chỉ khoảng 10% dự án được thực hiện theo hình thức BOT hoặc BT.
Bà Xuân cho rằng, rào cản lớn nằm ở cơ chế giá dịch vụ xử lý nước thải được ban hành từ năm 2018 hiện còn quá thấp, chỉ bằng 10–30% giá nước sạch, khiến các nhà đầu tư thiếu động lực tham gia. Thêm vào đó, thiếu đồng bộ hạ tầng thu gom, xử lý cùng rủi ro pháp lý cao do chính sách thay đổi liên tục khiến doanh nghiệp e dè khi đầu tư dài hạn.
Để tháo gỡ, bà Xuân kiến nghị cần có lộ trình tăng chi ngân sách cho bảo vệ môi trường lên mức 1,5–2% tổng chi ngân sách, đồng thời tính đúng, tính đủ giá dịch vụ xử lý nước thải; chuẩn hóa hợp đồng PPP theo hướng chia sẻ rủi ro công bằng giữa Nhà nước và doanh nghiệp; song song đó là thúc đẩy tín dụng xanh, trái phiếu xanh cho các dự án xử lý nước thải quy mô nhỏ và phân tán.
Đại biểu Phạm Văn Thịnh (Bắc Ninh) thì cho rằng, đã đến lúc cần thay đổi cách tiếp cận trong xử lý nước thải sinh hoạt, không chỉ phụ thuộc vào các hệ thống tập trung mà cần khuyến khích xử lý tại nguồn. Ông cho biết, Bắc Ninh đang thí điểm mô hình này và kết quả rất khả quan: “Chi phí xử lý chỉ khoảng 100 đồng/m³, nhưng nước sau xử lý đạt chuẩn cột A, đủ điều kiện xả thải ra môi trường. Mô hình này đã được Nhật Bản áp dụng từ lâu, bắt buộc các hộ gia đình và cơ sở sản xuất phải xử lý nước thải đạt chuẩn trước khi thải ra ngoài,” ông chia sẻ.
Ông Thịnh cũng đề nghị Quốc hội và các Ủy ban liên quan trực tiếp khảo sát, chứng kiến công nghệ xử lý tại nguồn để có cơ sở nhân rộng trên phạm vi toàn quốc.
Đại biểu Đào Chí Nghĩa (TP. Cần Thơ) nêu rõ, dù hệ thống pháp luật về môi trường đã được ban hành khá đầy đủ, song khâu thực thi vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực xử lý nước thải đô thị. “Hiện hơn 80% lượng nước thải sinh hoạt đô thị đang được xả thẳng ra môi trường tự nhiên mà chưa qua xử lý, hoặc chỉ xử lý sơ sài – đây là con số rất đáng báo động,” ông Nghĩa nhấn mạnh.
Để khắc phục tình trạng này, ông kiến nghị sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính, tăng mức xử phạt và công khai thông tin các trường hợp vi phạm môi trường. Đồng thời, cần bổ sung chế tài mạnh trong Nghị định 45/2022 nhằm nâng cao tính răn đe.
Với Chính phủ, đại biểu đề xuất ưu tiên vốn đầu tư công để hoàn thiện hệ thống thu gom và xử lý đồng bộ tại các đô thị cũ, áp dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, đồng thời tổng kết Quyết định 1788/2013 về xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ngoài ra, cần sớm triển khai các khu xử lý chất thải tập trung vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là tại Cà Mau; bổ sung định mức kinh tế – kỹ thuật cho công tác thu gom, vận chuyển và quét dọn rác thải; đồng thời hỗ trợ địa phương cải tạo, xử lý các bãi chôn lấp ô nhiễm.
Từ các ý kiến tại nghị trường, có thể thấy bài toán xử lý nước thải sinh hoạt vẫn là một trong những thách thức lớn nhất của quản lý môi trường đô thị Việt Nam. Để hướng tới đô thị xanh - kinh tế tuần hoàn, không chỉ cần nguồn lực đầu tư mạnh mẽ hơn, mà còn đòi hỏi chính sách minh bạch, ổn định, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia. Chỉ khi giải quyết triệt để điểm nghẽn này, mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ sức khỏe cộng đồng mới có thể đạt được một cách toàn diện và lâu dài.




