Chuyên đề “Thực trạng trong công tác xử lý nước thải và bảo vệ môi trường tại các tòa nhà chung cư”
Nước thải từ các chung cư đang trở thành thách thức lớn cho môi trường đô thị. Việc quản lý và xử lý đúng cách không chỉ là trách nhiệm của chủ đầu tư và ban quản lý, mà còn đòi hỏi sự giám sát của cơ quan chức năng để đảm bảo phát triển bền vững.

LTS: Trong bối cảnh đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, các tòa nhà chung cư đang trở thành loại hình nhà ở phổ biến, đáp ứng nhu cầu an cư của hàng triệu người dân. Tuy nhiên, song song với sự phát triển đó là những thách thức lớn về công tác xử lý nước thải và bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy, không ít chung cư vẫn tồn tại tình trạng hệ thống xử lý nước thải chưa đồng bộ, xuống cấp hoặc vận hành chưa đúng quy chuẩn, gây tác động tiêu cực đến môi trường và chất lượng sống của cư dân.
Chuyên đề “Thực trạng trong công tác xử lý nước thải và bảo vệ môi trường tại các tòa nhà chung cư” được thực hiện với mong muốn thông tin, phản biện một cách toàn diện bức tranh thực tế, từ những điểm sáng trong quản lý – vận hành cho tới những bất cập, tồn tại cần khắc phục. Thông qua đó, Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ đầu tư, đơn vị quản lý, cư dân và cơ quan chức năng, hướng tới mục tiêu xây dựng môi trường sống trong lành, bền vững cho cộng đồng đô thị.

Quy định đã có, thực tế vẫn bỏ ngỏ
Từ nhiều năm nay, chung cư đã trở thành lựa chọn an cư của hàng triệu gia đình ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng. Những khối nhà cao tầng mọc lên san sát, góp phần thay đổi diện mạo đô thị hiện đại. Thế nhưng, song song với sự bùng nổ đó là một thực tế âm thầm nhưng nghiêm trọng: Công tác xử lý nước thải ở nhiều chung cư không được quan tâm đúng mức. Không ít hệ thống xử lý chỉ tồn tại trên bản vẽ, hoặc được lắp đặt để hoàn tất thủ tục nghiệm thu, rồi sau đó hoạt động cầm chừng, thậm chí “đắp chiếu”. Nước thải chưa qua xử lý chảy thẳng ra kênh mương, hồ điều hòa, gây mùi hôi, ô nhiễm và tiềm ẩn rủi ro cho sức khỏe hàng chục nghìn cư dân. Đây không còn là chuyện kỹ thuật đơn thuần, mà là bài toán quản lý, trách nhiệm và minh bạch trong bảo vệ môi trường sống.

Trên giấy tờ, khung pháp lý khá đầy đủ. Nhưng trong thực tế, khoảng cách giữa quy định và vận hành lại quá lớn. Khi dự án xin cấp phép xây dựng, hệ thống xử lý nước thải luôn có mặt trong hồ sơ thiết kế. Nhưng sau khi công trình đi vào vận hành, nhiều nơi bỏ qua khâu duy tu, không thuê nhân sự kỹ thuật chuyên trách, hoặc tìm cách “tiết kiệm chi phí” bằng cách tắt bớt công đoạn xử lý.
Ở các đô thị lớn, hiện có ba mô hình xử lý nước thải tại chung cư. Thứ nhất là trạm xử lý nước thải tập trung tại chỗ (STP), được đầu tư công nghệ hiện đại với công suất vài trăm đến vài nghìn mét khối/ngày. Về lý thuyết, đây là giải pháp tối ưu, nhưng chi phí vận hành quá cao khiến nhiều nơi chỉ chạy máy khi có đoàn kiểm tra. Thứ hai là bể tự hoại ba ngăn, mô hình phổ biến tại nhiều chung cư cũ hoặc dự án nhỏ, chỉ xử lý phần hữu cơ lắng đọng, còn nước thải vẫn ô nhiễm khi chảy ra ngoài. Thứ ba là phương án đấu nối vào hệ thống xử lý tập trung của thành phố, nhưng tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý hiện mới đạt dưới 20%, khiến phương án này chỉ khả thi ở một số khu vực nhất định.

Hệ quả là, nhiều hệ thống xử lý trong chung cư dù được thiết kế hiện đại, nhưng vì chi phí vận hành cao và thiếu nhân lực chuyên môn, nên hoạt động kém hiệu quả. Một kỹ sư môi trường từng phụ trách vận hành ở Hà Nội tiết lộ: “Hệ thống chỉ chạy khi có đoàn kiểm tra, còn ngày thường thì tắt bớt để tiết kiệm điện”. Lỗ hổng lớn nằm ở khâu giám sát: Khi sự cố xảy ra, việc xác định trách nhiệm giữa chủ đầu tư, ban quản trị và đơn vị vận hành thường rơi vào vòng luẩn quẩn, cuối cùng người dân phải chịu thiệt.
Từ góc độ chính sách và thực tiễn, PGS.TS Bùi Thị An - Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng thẳng thắn nhìn nhận hệ thống xử lý nước thải tại nhiều tòa nhà chung cư hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Dù các dự án đều được phê duyệt trong giai đoạn hình thành, nhưng quá trình thi công và vận hành sau khi đưa vào sử dụng thiếu sự giám sát chặt chẽ. Vì vậy, vẫn tồn tại một số chung cư có hệ thống xử lý nước thải không đạt yêu cầu, gây ảnh hưởng đến môi trường chung của toàn thành phố.

Những sự cố gióng hồi chuông cảnh báo
Một trong những vấn đề nhức nhối là xác định trách nhiệm pháp lý. Khi hệ thống xử lý trục trặc, chủ đầu tư thường cho rằng đã bàn giao cho ban quản trị. Ban quản trị lại viện lý do không có quỹ duy tu, không có kỹ sư vận hành. Đơn vị vận hành dịch vụ thì chỉ được thuê theo hợp đồng ngắn hạn, khó ràng buộc trách nhiệm lâu dài. Trong khi đó, cơ quan quản lý nhà nước không thể giám sát 24/24, chỉ kiểm tra theo đợt. Hệ quả là “trách nhiệm bị chia nhỏ, hậu quả thì cư dân gánh chịu”.

Điển hình như vụ việc tại chung cư Ngọc Đông Dương, TP.HCM. Cụ thể, vào lúc 21h00 ngày 28/3/2025, sự cố tại bể chứa nước thải của toàn bộ chung cư xảy ra khiến nước thải chảy ra khắp nơi. Các cư dân đã phát hiện ra nước thải tràn thẳng vào bể nước sinh hoạt chung. Nguyên nhân là do đường ống thoát nước đặt quá gần đường ống cấp, cộng với bảo trì sai quy trình, dẫn tới nứt vỡ và rò rỉ. Hàng trăm hộ dân buộc phải ngừng sử dụng nước máy, chuyển sang mua nước đóng bình. “Cả gia đình tôi phải xếp hàng mua từng can nước, vừa tốn kém vừa bất tiện. Nghĩ đến cảnh đã trả tiền dịch vụ hàng tháng mà còn phải mua nước, thật sự bất công”, một cư dân chia sẻ. Sự cố này không chỉ gây hoang mang mà còn cho thấy sự lỏng lẻo trong khâu nghiệm thu, giám sát hệ thống kỹ thuật tòa nhà.
Hậu quả của việc xả thải không đạt chuẩn không chỉ dừng ở mùi hôi khó chịu. Nước thải chứa nhiều chất hữu cơ, hóa chất tẩy rửa, dầu mỡ, vi khuẩn có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng kênh mương, hồ điều hòa, làm chết cá, mất cảnh quan và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe. Với trẻ em và người già, nguy cơ mắc bệnh đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh hô hấp càng cao. Và nếu nước thải xâm nhập nguồn nước sinh hoạt, hậu quả có thể là dịch bệnh bùng phát trên diện rộng.
Cần minh bạch và trách nhiệm để thay đổi
Nhìn sâu hơn, có thể thấy nguyên nhân đến từ nhiều phía. Thứ nhất là hạ tầng thu gom đô thị chưa đồng bộ, khiến nhiều chung cư phải “tự xử” nhưng thiếu năng lực. Thứ hai là khoảng trống pháp lý trong giai đoạn vận hành: Quy chuẩn có, nhưng giám sát định kỳ chưa chặt chẽ. Thứ ba là chi phí vận hành cao, trong khi phí dịch vụ thu từ cư dân bị khống chế ở mức thấp, dẫn tới cắt giảm. Thứ tư là thiếu nhân lực chuyên môn, khi nhiều nơi giao hệ thống xử lý cho tổ vệ sinh hoặc bảo trì tòa nhà. Và cuối cùng là trách nhiệm chồng chéo, không rõ ràng.
Giải pháp vì thế phải mang tính tổng thể. Về công nghệ, cần ưu tiên các hệ thống nhỏ gọn, dễ vận hành, có thể tái sử dụng nước sau xử lý để tưới cây, rửa đường. Về quản lý, cần quy định bắt buộc kiểm định định kỳ và công khai kết quả cho cư dân, lập quỹ bảo trì riêng cho hệ thống xử lý, thuê đơn vị vận hành chuyên nghiệp thay vì ban quản trị tự xoay xở. Về chính sách, chính quyền cần tăng cường thanh tra đột xuất, áp dụng quan trắc tự động kết nối trực tiếp với Sở Nông nghiệp và Môi trường. Và về phía cộng đồng, cư dân cần chủ động giám sát, yêu cầu minh bạch dữ liệu vận hành.

Đề cập đến các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường tại khu chung cư, PGS.TS Bùi Thị An nhận định Luật Bảo vệ môi trường hiện nay đã có đầy đủ khung pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế phát sinh nhiều trường hợp khác nhau, do đó trong quá trình triển khai cần phải cụ thể hóa theo từng địa bàn.
Câu chuyện nước thải ở chung cư đã kéo dài nhiều năm, nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Những vụ việc như trạm xử lý gây mùi ở Hà Nội hay sự cố nước thải tràn vào bể chứa ở TP.HCM là lời cảnh tỉnh rõ ràng. Nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ, nguy cơ đô thị “ngập” trong ô nhiễm nước thải sẽ ngày càng hiện hữu, kéo theo hệ lụy lâu dài về sức khỏe và chất lượng sống. Đã đến lúc từ cơ quan quản lý, chủ đầu tư đến cư dân phải cùng nhau hành động, để hệ thống xử lý nước thải thực sự phát huy tác dụng, trả lại sự trong lành cho không gian sống đô thị.