Emagazines

An ninh nguồn nước – Nền tảng phát triển bền vững đất nước

Thanh Thảo 19/11/2025 10:05

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng, thiên tai diễn biến cực đoan và nhu cầu sử dụng tài nguyên nước cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng lớn, việc bảo đảm an ninh nguồn nước đã và đang được Đảng ta xác định là nhiệm vụ chiến lược đối với sự phát triển bền vững đất nước.

teal-and-white-modern-travel-agency-presentation-1-.png
ban-sao-cua-teal-and-white-modern-travel-agency-presentation.png

Bối cảnh mới và yêu cầu cấp thiết bảo đảm an ninh nguồn nước

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII trình Đại hội XIV của Đảng chỉ rõ: Biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường… là những nguy cơ trực tiếp đe dọa an ninh và phát triển bền vững quốc gia, trong đó an ninh nguồn nước đứng trước thách thức nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng.

ban-sao-cua-teal-and-white-modern-travel-agency-presentation-1-.png

Việt Nam có 108 lưu vực sông, với khoảng 3.450 sông, suối (chiều dài khoảng 10km trở lên). Tổng lượng nước mặt trung bình khoảng từ 830 - 840 tỷ m3, trong đó có hơn 60% lượng nước được bắt nguồn từ nước ngoài, chỉ có khoảng từ 310 - 320 tỷ m3 được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, nguồn nước phân bố không đều theo không gian và thời gian (mùa khô kéo dài 7-9 tháng) gây khó khăn lớn cho sinh hoạt, sản xuất và phát triển kinh tế. Cùng với đó, nhu cầu nước tăng nhanh làm gia tăng mâu thuẫn khai thác giữa thượng lưu – hạ lưu, giữa phát triển năng lượng, nông nghiệp, giao thông thủy và công nghiệp.

screenshot-2025-11-18-200424.png
Với 108 lưu vực sông và khoảng 3.450 sông, suối, Việt Nam sở hữu một hệ thống thủy văn phong phú

Bối cảnh quốc tế hiện tuân theo xu thế đa cực – đa trung tâm và cạnh tranh trở nên gay gắt. Những vấn đề xuyên biên giới trong quản lý lưu vực Mê Kông, Hồng – Thái Bình, những tác động từ các đập thủy điện thượng nguồn, quá trình khai thác nước quá mức cho nông nghiệp và công nghiệp ở các quốc gia láng giềng đã và đang làm suy giảm dòng chảy về Việt Nam, đặc biệt khu vực Đồng bằng sông Cửu Long – vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất cả nước.

ban-sao-cua-teal-and-white-modern-travel-agency-presentation-2-.png

Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu làm nước biển dâng, xâm nhập mặn rừng đầu nguồn bị suy giảm cũng gây ra những tác động không hề nhỏ tới nguồn nước. Hiện nay, Việt Nam đang được xếp trong nhóm các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu.

screenshot-2025-11-18-212806.png
Tốc độ công nghiệp hóa – đô thị hóa chóng mặt khiến nguồn nước ngầm suy giảm nghiêm trọng và các dòng sông lớn bị ô nhiễm nặng

Ngoài ra, tốc độ công nghiệp hóa – đô thị hóa nhanh khiến áp lực lên tài nguyên nước tăng mạnh. Nhiều lưu vực sông lớn như sông Nhuệ – Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai… đang đối mặt với ô nhiễm nặng; nguồn nước ngầm ở nhiều đô thị đang suy giảm nghiêm trọng; hàng loạt hiện tượng sụt lún, xâm nhập mặn, khô hạn xuất hiện với tần suất và mức độ chưa từng có. Các chuyên gia quốc tế xếp an ninh nguồn nước Việt Nam ở mức 2/5, thấp hơn nhiều quốc gia trong khu vực, cho thấy nguy cơ rõ rệt về thiếu hụt nước dài hạn.

Một vấn đề lớn khác cũng được đặt ra, đó là an toàn hồ đập. Với 86.202 công trình thủy lợi trong đó có 6.998 đập, hồ chứa thủy lợi. Bên cạnh đó, 500 hồ chứa thủy điện đi vào vận hành và khoảng 300 dự án thủy điện đang triển khai xây dựng và chuẩn bị đi vào vận hành, trong đó có các hồ lớn, như thủy điện Hòa Bình 9 tỷ mét khối nước, Thác Bà 2,9 tỷ mét khối nước. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu cực đoan như hiện nay, lũ lụt xảy ra thường xuyên với cường độ cao, tình trạng không ổn định của địa chất, hiện tượng đứt gãy dẫn tới động đất ở một số vùng cùng với 1.730 hồ, đập thủy lợi bị xuống cấp, trong đó có 1.200 hồ, đập cần sửa chữa và 200 hồ hư hỏng nặng cần sửa chữa khẩn cấp thì vấn đề an toàn hồ đập trở nên vô cùng cấp bách, cần được đặc biệt quan tâm, chú trọng, ảnh hưởng lớn đến an ninh nguồn nước, an toàn cho sản xuất và đời sống.

screenshot-2025-11-18-213427.png
Rừng bị cháy, tàn phá hay lấn chiếm sẽ làm suy giảm khả năng sinh thủy, ảnh hưởng đến nguồn nước

Vấn đề bảo vệ và phát triển rừng ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh nguồn nước. Hiện nay, toàn quốc có khoảng 14,55 triệu héc-ta rừng, tỷ lệ che phủ đạt 41,85% nhưng diện tích rừng đầu nguồn có khả năng sinh thủy lớn chỉ đạt 6,78 triệu héc-ta. Qua khảo sát cho thấy, rừng sản xuất trồng những cây mang mục đích kinh tế, có hiệu quả cao thì khả năng sinh thủy kém, gây thoái hóa đất, làm giảm mạnh thực bì và độ phì của đất. Đối với mức đầu tư dịch vụ bảo vệ rừng bình quân mới đạt 300.000 đồng/ha/năm, còn thấp so với mức thu nhập, chi phí để người dân, các tổ chức có thể sống và yên tâm bảo vệ rừng. Đây cũng là nguyên nhân rừng đầu nguồn bị thu hẹp, bị cháy, bị tàn phá, lấn chiếm, làm khả năng sinh thủy tại chỗ bị giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có tới 06 lần nhắc tới cụm từ an ninh nguồn nước (ANNN). Điều này không chỉ thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng trong việc bảo đảm ANNN trong bối cảnh mới mà quan trọng hơn là từng bước làm cho vấn đề ANNN được lan tỏa trong toàn xã hội. Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội cũng chỉ ra rằng “ANNN chưa được quan tâm đúng mức”. Hiến pháp năm 2013 quy định: Đất đai, tài nguyên nước, ... là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Thực tế, nước là nguồn tài nguyên có giá trị nhưng lâu nay thường bị xem là nguồn tài nguyên “của trời cho”, chưa được định giá đúng và đủ, dẫn đến tình trạng sử dụng lãng phí và ý thức bảo vệ nguồn nước còn hạn chế.

Từ những điểm nhìn chiến lược đó, bảo đảm an ninh nguồn nước không chỉ là đảm bảo một lượng nước nhất định phục vụ sinh hoạt, sản xuất, mà còn là bảo vệ chủ quyền tài nguyên; bảo đảm ổn định xã hội; giảm thiểu rủi ro thiên tai; tạo nền tảng cho chuyển đổi xanh; phát triển kinh tế bền vững. Đây chính là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong xây dựng Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, giai đoạn 2026–2030.

Đổi mới tư duy để thích ứng với kỷ nguyên khan hiếm nước

Trong những năm gần đây, nhận thức rõ tài nguyên nước là một trong những trụ cột của phát triển bền vững, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, gắn với thích ứng biến đổi khí hậu.

Trong đó, Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị là văn kiện có tính định hướng chiến lược và đã khẳng định rõ việc bảo đảm an ninh nguồn nước là “Bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; chủ động tích trữ, điều hòa, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước, ứng phó hiệu quả với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.”

Trên nền tảng định hướng của Bộ Chính trị, Quốc hội đã thông qua Luật Tài nguyên nước năm 2023. Luật gồm 10 chương, 86 điều, xác lập nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng lưu và hạ lưu, giữa quản lý theo lưu vực sông và theo địa giới hành chính. Luật cũng thể chế hóa 4 nhóm chính sách lớn: (1) Bảo đảm an ninh nguồn nước, coi an ninh nước là nền tảng của phát triển quốc gia, gắn kết với các quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ứng phó biến đổi khí hậu; (2) Xã hội hóa ngành nước, huy động nguồn lực ngoài nhà nước trong đầu tư phát triển, khai thác, phục hồi và bảo vệ nguồn nước; (3) Kinh tế tài nguyên nước, chuyển dần từ quản lý hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế, tính đúng, tính đủ giá trị tài nguyên nước; (4) Bảo vệ, phục hồi tài nguyên nước và phòng chống tác hại do nước gây ra. Đây là bước ngoặt quan trọng, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng nền quản trị tài nguyên nước hiện đại, toàn diện và thích ứng với biến đổi khí hậu.

screenshot-2025-11-18-220016.png
An ninh nguồn nước là nền tảng để phát triển bền vững đất nước

Tư duy phát triển của Đảng về nước trong các Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV mang tính đột phá mạnh mẽ khi chuyển mạnh từ “khai thác” sang “quản trị tổng hợp và sử dụng bền vững nguồn nước”. Dự thảo Văn kiện đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm như: Hoàn thiện pháp luật, thể chế về quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông, thống nhất giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng – hạ lưu; Phát triển hệ thống quan trắc, dự báo, cảnh báo rủi ro, nâng tầm khoa học – công nghệ trong giám sát và điều tiết nguồn nước; Phát triển hồ chứa lớn, công trình trữ nước; Bảo đảm an toàn đập, hồ chứa, Quản lý rủi ro thiên tai nước: lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn,... Những định hướng này tiếp nối tư duy chiến lược từ Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị và Luật Tài nguyên nước 2023, nhưng ở tầm cao hơn, toàn diện hơn, gắn với mục tiêu tự chủ chiến lược và phát triển bền vững.

Đảng yêu cầu đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên cao nhất, đồng thời huy động tối đa nguồn lực từ doanh nghiệp, cộng đồng và quốc tế. Đây là yếu tố quyết định để Việt Nam có thể bứt phá, tránh rơi vào vòng xoáy thiếu nước – mất an ninh lương thực – suy thoái môi trường.

Định hướng giải pháp: Quản trị thông minh, hợp tác quốc tế và tiếp cận bao trùm

Đảm bảo an ninh nguồn nước không còn chỉ dừng ở việc duy trì lượng nước đủ cho dân sinh và sản xuất, mà đã trở thành một yêu cầu mang tính chiến lược nhằm bảo vệ ổn định quốc gia trong dài hạn. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến bất thường, dân số tăng nhanh, nhu cầu phát triển hạ tầng – công nghiệp – đô thị mở rộng, Việt Nam cần một hệ thống giải pháp mang tính tổng thể, chủ động và tiên tiến, đặt nền tảng trên quản trị hiện đại, khoa học công nghệ và sự phối hợp đa cấp, đa ngành.

ban-sao-cua-teal-and-white-modern-travel-agency-presentation-4-.png

Trước hết, việc xác định nước là yếu tố cấu thành an ninh quốc gia cần được thể hiện nhất quán trong chiến lược phát triển của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Điều này đồng nghĩa với việc lồng ghép mục tiêu an ninh nguồn nước vào quy hoạch không gian phát triển, chiến lược năng lượng, nông nghiệp, đô thị và môi trường. Thay cho tư duy quản lý tách rời theo ngành hoặc địa giới hành chính, Việt Nam đang từng bước chuyển sang mô hình quản lý tổng hợp theo lưu vực sông, liên vùng và liên ngành – cách tiếp cận phù hợp với xu hướng quốc tế và tính chất dịch chuyển của nước.

ban-sao-cua-teal-and-white-modern-travel-agency-presentation-5-.png

Trong quản trị nước, tính chủ động phải được đặt lên hàng đầu. Những đợt hạn hán gay gắt ở Đồng bằng sông Cửu Long, thiếu nước nghiêm trọng tại Tây Nguyên hay ngập úng kéo dài tại các đô thị lớn đã cho thấy mô hình “chạy theo sự cố” không còn phù hợp. Việc đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống dự báo, cảnh báo sớm, mô phỏng dòng chảy, điều tiết hồ chứa theo thời gian thực và xây dựng các kịch bản nguồn nước trở nên cấp thiết. Khi công nghệ số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo được tích hợp trong quản lý, Việt Nam có thể chuyển từ trạng thái “bị động ứng phó” sang “điều hành chủ động”, tối ưu hóa sử dụng nước trong nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt, đồng thời giảm thiểu tác động của thiên tai.

xu-ly-nuoc-image-1.png
Ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo giúp Việt Nam chuyển từ thế bị động ứng phó sang chủ động điều hành tài nguyên nước

Một nội dung trọng tâm khác là cải tổ hạ tầng nước theo hướng linh hoạt, đa mục tiêu và thích ứng. Các hồ chứa liên vùng, đập ngăn mặn, công trình điều hòa nước không chỉ phục vụ trữ nước sinh hoạt mà còn góp phần chống hạn, giảm lũ, phục hồi hệ sinh thái và duy trì sinh kế cho cộng đồng. Ở khu vực đồng bằng, nhất là đô thị ven biển và vùng trũng thấp, tư duy “đối đầu với nước” cần được thay thế bằng tư duy “sống chung và thích nghi với nước”. Những giải pháp tự nhiên như mở rộng hệ thống hồ điều hòa, công viên trữ nước, đồng ruộng chứa lũ, phục hồi lòng sông và vùng ngập nước là hướng tiếp cận phù hợp trước biến động khí hậu ngày một cực đoan.

Song song với quản trị kỹ thuật và hạ tầng, phục hồi hệ sinh thái nước giữ vai trò nền tảng. Bảo vệ rừng đầu nguồn, khôi phục rừng ngập mặn, duy trì dòng chảy tối thiểu và cải tạo các dòng sông bị ô nhiễm là những giải pháp thiết yếu để nước có thể tái tạo tự nhiên. Nguồn nước không thể được xem là vô hạn; do vậy, sử dụng nước tiết kiệm, tái sử dụng nước thải, ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp – công nghiệp cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa.

screenshot-2025-11-18-222652.png
Huy động nguồn lực xã hội và tư nhân giúp thúc đẩy hệ sinh thái doanh nghiệp trong cấp nước sạch, xử lý và tái sử dụng nước, công nghệ tiết kiệm nước

Một trụ cột không thể thiếu là huy động nguồn lực xã hội và khu vực tư nhân. Khi nước được xem là lĩnh vực ưu tiên đầu tư, hệ sinh thái doanh nghiệp trong các lĩnh vực như cấp nước sạch, xử lý nước thải, tái sử dụng nước, công nghệ tiết kiệm nước và số hóa quản trị sẽ có cơ hội phát triển. Các mô hình PPP, tín chỉ nước, cơ chế thị trường tài nguyên nước và công cụ tài chính xanh sẽ mở ra nguồn lực mới, giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.

Trong bối cảnh nhiều nguồn nước quan trọng của Việt Nam nằm trên lưu vực xuyên biên giới, hợp tác quốc tế cần được nâng tầm từ trao đổi kỹ thuật sang ngoại giao chiến lược. Việc tham gia sâu vào các cơ chế chia sẻ dữ liệu và vận hành trên sông Mekong, sông Hồng – Thái Bình; tiếp cận tài chính khí hậu toàn cầu; hợp tác nghiên cứu cùng các quốc gia tiên phong về quản trị nước sẽ tạo nên “lợi thế mềm” trong bảo vệ lợi ích quốc gia.

Cuối cùng, bảo đảm an ninh nguồn nước chỉ có thể bền vững khi bắt đầu từ thay đổi nhận thức xã hội. Khi mỗi cộng đồng, mỗi doanh nghiệp và từng người dân hiểu giá trị thật của nước không chỉ để sử dụng mà để gìn giữ cho thế hệ mai sau thì chính sách, công nghệ và đầu tư mới phát huy hiệu quả.

ban-sao-cua-teal-and-white-modern-travel-agency-presentation-3-.png
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
}
An ninh nguồn nước – Nền tảng phát triển bền vững đất nước
(*) Bản quyền thuộc về Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.