1.jpg

Quy định phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn theo Luật Bảo vệ môi trường 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2025, mở ra kỳ vọng thay đổi thói quen xử lý rác và giảm áp lực chôn lấp. Tuy nhiên, sau 8 tháng triển khai, thực tế tại nhiều địa phương cho thấy vẫn còn nhiều chênh lệch: Nơi đã thí điểm; nơi vẫn loay hoay với hạ tầng, tổ chức và tuyên truyền.

P/S: Từ ngày 01/01/2025, quy định phân loại rác tại nguồn theo Luật Bảo vệ môi trường 2020 chính thức có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc. Đây được coi là bước đi quan trọng, tạo nền tảng để xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, giảm áp lực xử lý rác thải và bảo vệ môi trường bền vững. Tuy nhiên, sau 8 tháng triển khai, thực tế tại nhiều địa phương cho thấy việc phân loại rác tại nguồn vẫn còn ì ạch, thậm chí chưa được bắt đầu, khiến dư luận đặt ra nhiều câu hỏi về những “nút thắt” trong khâu thực thi.

Trước bối cảnh đó, Tạp chí Môi trường và Cuộc sống thực hiện Chuyên đề “Phân loại rác tại nguồn: Rào cản và thách thức trong việc triển khai” nhằm phản ánh khách quan, đa chiều về thực trạng triển khai quy định này. Chuyên đề sẽ phân tích những nguyên nhân cốt lõi khiến chính sách khó đi vào đời sống, từ hạ tầng kỹ thuật, cơ chế quản lý, cho đến nhận thức và thói quen của người dân. Đồng thời, chuyên đề cũng hướng tới việc lan tỏa các mô hình phù hợp, giải pháp sáng tạo và cách làm hiệu quả để chính sách sớm đi vào đời sống.

Với trách nhiệm xã hội và sứ mệnh truyền thông vì sự phát triển bền vững, Tạp chí Môi trường và Cuộc sống mong muốn chuyên đề sẽ góp phần khơi gợi sự quan tâm của toàn xã hội, thúc đẩy sự chung tay của các cấp, ngành và cộng đồng trong việc biến quy định phân loại rác tại nguồn thành hành động thiết thực, vì một môi trường xanh – sạch – lành mạnh cho hôm nay và mai sau.

Kỳ vọng lớn từ một chính sách đúng đắn

Trong nhiều năm qua, ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt luôn là một trong những thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt. Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia, năm 2019 cả nước phát sinh khoảng 64.658 tấn chất thải rắn sinh hoạt mỗi ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm hơn 35.000 tấn. Đến nay, con số này đã vượt ngưỡng 67.800 tấn/ngày, với khu vực đô thị phát sinh gần 38.200 tấn, còn lại gần 30.000 tấn từ khu vực nông thôn.

3.jpg

Những con số này không chỉ phản ánh áp lực khổng lồ về khối lượng, mà còn cho thấy nguy cơ môi trường ngày càng trầm trọng nếu rác thải không được quản lý theo hướng hiện đại, bền vững.

Trong bối cảnh đó, Luật Bảo vệ môi trường 2020 ra đời với quy định phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2025, được coi là một quyết sách mang tính bước ngoặt. Bởi lẽ, phân loại rác tại nguồn không đơn thuần là một biện pháp kỹ thuật, mà là “chìa khóa” để giải quyết tận gốc nhiều vấn đề cùng lúc: Từ giảm tải áp lực chôn lấp, hạn chế phát sinh nước rỉ rác, khí thải độc hại, đến tận dụng lại nguồn nguyên liệu quý giá bị bỏ phí trong rác thải. Đây là bước đi tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, đồng thời mở đường cho Việt Nam xây dựng một nền kinh tế tuần hoàn – nơi rác không còn là gánh nặng, mà trở thành tài nguyên.

Lợi ích của việc phân loại rác đã được nhiều chuyên gia và nhà quản lý khẳng định rõ ràng. Trước hết, nó giúp giảm đáng kể khối lượng rác phải chôn lấp, vốn là phương thức xử lý phổ biến nhưng gây nhiều hệ lụy. Các bãi rác lộ thiên không chỉ chiếm dụng diện tích đất lớn mà còn tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm không khí, nguồn nước ngầm và đất đai. Đặc biệt, nước rỉ rác – một sản phẩm tất yếu từ quá trình chôn lấp có thể trở thành “thủ phạm thầm lặng” gây ô nhiễm lâu dài nếu không được xử lý triệt để. Bằng việc tách riêng các thành phần hữu cơ, tái chế và chất thải còn lại ngay từ đầu, nguy cơ phát sinh ô nhiễm từ các bãi chôn lấp sẽ được giảm đáng kể.

Không chỉ dừng lại ở lợi ích môi trường, phân loại rác còn mở ra cơ hội kinh tế đáng kể. Các loại giấy, nhựa, kim loại, thủy tinh nếu được tách riêng từ sớm cũng có thể tái chế, tái sử dụng, tiết kiệm chi phí và giảm sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn đang ngày càng cạn kiệt. Như vậy, thay vì bị chôn lấp và mất hàng trăm năm mới phân hủy, rác có thể quay trở lại vòng tuần hoàn sản xuất, trở thành sản phẩm hữu ích. Đó chính là tinh thần của nền kinh tế tuần hoàn mà Việt Nam đang hướng đến.

4(1).jpg

Ở góc độ xã hội, quy định phân loại rác tại nguồn còn được kỳ vọng tạo ra một sự thay đổi căn bản trong ý thức cộng đồng. Nếu trước đây, người dân quen với hình ảnh những xe rác “tất cả đổ chung”, thì nay, luật mới buộc mỗi hộ gia đình, mỗi tổ chức phải tham gia vào quá trình phân loại. Khi đó, trách nhiệm bảo vệ môi trường không còn chỉ là công việc của các cơ quan chức năng hay lực lượng thu gom rác, mà trở thành thói quen và hành động thiết thực của từng cá nhân trong xã hội. Đây chính là một “bài học công dân” quan trọng, góp phần hình thành một xã hội văn minh, nơi mỗi người đều ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường sống.

Quy định về phân loại rác tại nguồn trong luật Luật Bảo vệ môi trường 2020 được nhiều chuyên gia đánh giá là một chính sách “đúng và trúng”. Nó đúng bởi xuất phát từ thực tiễn bức bách về rác thải và nhu cầu cấp thiết phải thay đổi. Nó trúng bởi nhắm đến gốc rễ của vấn đề: Thói quen xử lý rác của từng cá nhân, hộ gia đình. Chính sách này không chỉ đơn thuần là một mệnh lệnh hành chính, mà còn là cú hích để thay đổi nhận thức và hành vi xã hội theo hướng bền vững.

Một điểm quan trọng khác, phân loại rác tại nguồn còn được xem là giải pháp mang tính “phòng ngừa” trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Khi rác được phân loại và xử lý hợp lý, lượng khí thải nhà kính từ bãi chôn lấp sẽ giảm đi đáng kể. Việc tận dụng rác hữu cơ làm phân bón, hay tái chế nhựa, kim loại, thủy tinh không chỉ giảm phát thải mà còn giảm tiêu thụ năng lượng trong sản xuất mới. Như vậy, phân loại rác không chỉ là vấn đề môi trường trong phạm vi quốc gia, mà còn gắn liền với những cam kết toàn cầu về giảm phát thải, bảo vệ khí hậu.

Tất nhiên, để chính sách đi vào thực tiễn, không thể chỉ dựa vào quy định pháp luật. Cần sự chuẩn bị đồng bộ từ hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thu gom, xử lý đến công tác truyền thông, giáo dục cộng đồng. Nhưng trên hết, quy định trên đã khẳng định rõ ràng rằng, phân loại rác tại nguồn không còn là khẩu hiệu, không còn là phong trào tự phát ở vài địa phương, mà đã trở thành một yêu cầu bắt buộc trên phạm vi toàn quốc. Từ đó, mỗi hành động nhỏ như phân loại rác trong gia đình sẽ kết nối vào một chuỗi hành động lớn, góp phần thay đổi diện mạo công tác quản lý chất thải của cả quốc gia.

Nói cách khác, quy định phân loại rác tại nguồn chính thức có hiệu lực chính là sự khởi đầu cho một giai đoạn mới: Giai đoạn mà rác không còn chỉ là gánh nặng, mà được nhìn nhận như một nguồn tài nguyên. Chính sách này mang theo kỳ vọng không chỉ giúp giảm chi phí xử lý, bảo vệ môi trường, mà còn thúc đẩy hình thành một xã hội văn minh, một nền kinh tế xanh và một tương lai bền vững hơn cho Việt Nam.

Trong ngày 1/1/2025, khi luật chính thức đi vào cuộc sống, nhiều chuyên gia môi trường, nhà quản lý và dư luận đều chờ đợi sự thay đổi lớn: Hình ảnh quen thuộc về những xe rác “tất cả đổ chung” sẽ được thay bằng hệ thống phân loại rõ ràng; người dân sẽ hình thành thói quen mới; rác thải sẽ trở thành tài nguyên. Nhưng thực tế sau 8 tháng đã diễn biến theo một chiều hướng khác.

55 tỉnh, thành đã triển khai nhưng chủ yếu thí điểm nhỏ lẻ, hiệu quả chưa đồng đều

2(1).jpg

Luật Bảo vệ môi trường yêu cầu các địa phương phải phân loại tại nguồn từ năm 2025. Tuy nhiên, ông Trung cho rằng, yêu cầu là vậy nhưng các địa phương sẽ không phải thực hiện đồng loạt trên toàn bộ địa bàn tỉnh mà sẽ thí điểm ở quy mô nhỏ sau đó tổng kết, đánh giá, nhân rộng.

"Lộ trình phân loại rác tại nguồn sẽ được thực hiện trong vòng ba năm để các địa phương có thời gian chuẩn bị", ông Trung nói và chia sẻ hiện cơ sở hạ tầng cho việc thu gom rác đang rất thiếu, đối với phân loại thì càng thiếu hơn.

Điều đó có nghĩa, trong giai đoạn hiện nay, đa số các địa phương mới dừng lại ở việc thí điểm. Việc nhân rộng ra toàn địa bàn, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, sẽ cần thêm thời gian và nguồn lực.

5.jpg

Sau khi Luật có hiệu lực với các quy định mang tính bắt buộc, các địa phương đã bắt đầu triển khai thực hiện phân loại rác tại nguồn. Tuy nhiên việc này có rất nhiều khó khăn, thách thức.

Theo thống kê của Cục Môi trường, tính đến trước ngày sáp nhập các tỉnh/thành phố, chỉ có 34/63 địa phương thực hiện phân loại, chủ yếu ở quy mô nhỏ, mang tính thí điểm, chưa được nhân rộng. Công tác triển khai, phối hợp của các Bộ, ngành và địa phương cũng chưa đồng bộ, chưa tập trung vào các giải pháp cấp bách để chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết đáp ứng yêu cầu quản lý chất thải rắn sinh hoạt.

Trước thời điểm sáp nhập, còn tới 33 địa phương chưa ban hành quy định về phân loại chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đặc biệt, có tới 59 địa phương chưa ban hành định mức kinh tế kỹ thuật, ngoài Bà Rịa – Vũng Tàu (nay là TP.HCM), Bình Định, Lạng Sơn, Long An. Bên cạnh đó, có tới 58 địa phương chưa ban hành giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt, ngoại trừ Đà Nẵng, Gia Lai (nay là tỉnh Bình Định), Long An, Bình Dương (nay là TP.HCM), Quảng Nam (nay là TP Đà Nẵng) và TP Hồ Chí Minh trong khi đây là những điều kiện rất quan trọng để có thể thực hiện phân loại rác.

Hiện nay các địa phương còn lúng túng trong áp dụng đơn giá thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt sau phân loại. Một số định mức, đơn giá áp dụng địa phương chưa phù hợp. Một số địa phương nông thôn, miền núi hoặc hải đảo đòi hỏi phải có định mức, đơn giá đặc thù.

Bà Dương Thị Thanh Xuyến, Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ ở Hội thảo Quản lý chất thải rắn sinh hoạt và thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất chiều 3/7 tại Hưng Yên

Thực tế ở một số đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng,… đã có những bước đi nhất định. Tuy nhiên, sau giai đoạn thí điểm, kết quả vẫn chưa đạt kỳ vọng, do khâu thu gom chưa đồng bộ, dẫn đến tình trạng “trộn lại từ đầu”.

Tại TP. Hà Nội, nhiều phường đã triển khai thí điểm phân loại rác nhằm tạo chuyển biến trong thói quen xử lý rác của người dân. Thế nhưng, theo ghi nhận của phóng viên Tạp chí Môi trường & Cuộc sống, sau thời gian đầu sôi nổi, phần lớn các hoạt động phân loại lại rơi vào vòng lặp cũ. Những chiếc xe thu gom rác đi qua nhiều tuyến phố vẫn chủ yếu gom rác hỗn hợp, từ thức ăn thừa, túi ni-lông cho tới giấy, nhựa, kim loại. Người dân dù đã được tuyên truyền về quy định mới nhưng sự thay đổi trong thực tế chưa rõ rệt. “Có nghe về phân loại rác nhưng thấy họ thu gom chung thì mình phân loại cũng chẳng để làm gì” – một người dân tại quận Hoàn Kiếm chia sẻ.

Thực tế này phản ánh những khó khăn Hà Nội đang gặp phải trong quá trình triển khai. Thành phố mỗi ngày thải ra khoảng 7.000 tấn rác sinh hoạt, trong khi hạ tầng phục vụ cho việc phân loại và xử lý riêng biệt chưa đồng bộ. Nhiều nơi chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, hướng dẫn nhưng thiếu sự giám sát chặt chẽ, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp chính quyền, đơn vị thu gom và cơ sở xử lý. Hệ quả là, người dân dù biết quy định nhưng vẫn lựa chọn “đứng ngoài cuộc”, một phần vì chưa thấy hiệu quả rõ ràng, một phần vì thiếu điều kiện thuận lợi để thực hiện.

Bên cạnh đó, việc Hà Nội chuyển sang mô hình chính quyền đô thị hai cấp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ triển khai. Một số địa phương trong giai đoạn sáp nhập, tinh gọn bộ máy còn lúng túng trong việc phân định trách nhiệm quản lý, khiến công tác chỉ đạo, giám sát việc phân loại rác tại nguồn chưa được thống nhất và đồng bộ.

Tương tự tại TP.HCM, sau 8 tháng kể từ khi quy định phân loại rác tại nguồn và mức xử phạt có hiệu lực, việc triển khai trên thực tế vẫn chủ yếu dừng lại ở khâu tuyên truyền và nhắc nhở. Các phường, xã, thị trấn thuộc các thành phố trực thuộc TP.HCM, đều tăng cường tuyên truyền trên loa phát thanh, nhóm dân cư, tổ dân phố nhằm nâng cao ý thức người dân. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có trường hợp nào bị xử phạt hành chính vì không phân loại rác, khiến quy định chưa thật sự phát huy hiệu quả, còn người dân thì dần cảm thấy việc phân loại chỉ mang tính hình thức. Bên cạnh đó, khâu thu gom cũng chưa đồng bộ. Công nhân vệ sinh, do thiếu phương tiện chuyên dụng và quy trình phù hợp, vẫn gom tất cả rác vào cùng một xe chở rác hỗn hợp.

Ở một số tỉnh miền Bắc, mô hình phân loại rác thải hữu cơ làm phân bón cho cây trồng đã được áp dụng ở quy mô hộ gia đình, mang lại hiệu quả nhất định. Nhưng mô hình này vẫn còn manh mún, thiếu tính bền vững và phụ thuộc nhiều vào thói quen, ý thức tự giác của người dân.

Những “nút thắt” lớn: Hạ tầng – Thói quen – Truyền thông

6.jpg

Trước hết, hạ tầng vẫn là điểm nghẽn quan trọng nhất. Bà Dương Thị Thanh Xuyến, đại diện Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, hệ thống phục vụ công tác thu gom, lưu giữ, tập kết, trung chuyển, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt hiện chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, lại thiếu đồng bộ với chủ trương phân loại. Điều này dẫn đến tình trạng người dân có phân loại tại nhà nhưng khi thu gom lại bị trộn lẫn, làm mất đi ý nghĩa ban đầu.

Thực tế, Việt Nam hiện chưa có nhiều cơ sở hạ tầng để xử lý chất thải sau phân loại, đặc biệt là chất thải thực phẩm – loại rác chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng rác thải sinh hoạt. Các cơ sở xử lý tập trung rác hữu cơ thành phân bón, mùn hữu cơ hầu như chưa được hình thành; hạ tầng tiếp nhận rác tái chế, tái sử dụng cũng thiếu vắng.

7.jpg

Theo bà Xuyến, muốn phân loại rác hiệu quả phải tính toán đến “đầu ra” của từng loại rác, bởi mỗi dòng chất thải cần một phương pháp xử lý khác nhau theo thứ tự ưu tiên. Nếu thiếu hạ tầng đồng bộ, chúng ta chỉ có thể phân loại rác tái chế đơn giản, còn lại vẫn quay về tình trạng gom chung như cũ.

Song song với hạ tầng, thói quen xã hội cũng là một nút thắt khó tháo gỡ.

Nhiều thế hệ người dân đã quen với việc bỏ chung tất cả rác vào một túi nylon duy nhất, đưa cho công nhân vệ sinh mang đi. Việc thay đổi thói quen này không thể thực hiện trong “một sớm một chiều”, mà cần cả một quá trình lâu dài, liên tục và được giám sát chặt chẽ. Khi người dân chưa nhìn thấy lợi ích trực tiếp của việc phân loại, trong khi khâu thu gom chưa đảm bảo, họ dễ nảy sinh tâm lý ngại thay đổi và quay lại thói quen cũ. Một số người đã thử phân loại nhưng khi thấy xe rác gom tất cả vào một chỗ, dần dần họ mất niềm tin, cho rằng mọi nỗ lực của mình là vô ích. Từ đó, việc hình thành thói quen phân loại bền vững trở nên khó khăn, thậm chí bị chững lại.

Bên cạnh hạ tầng và thói quen, công tác truyền thông cũng chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Dù nhiều địa phương đã tổ chức tuyên truyền bằng loa phát thanh, phát tờ rơi hay hướng dẫn trực tiếp, song cách làm còn dàn trải, chưa đủ sức thuyết phục. Không ít người dân vẫn lúng túng khi được hỏi về cách phân loại cụ thể, chưa rõ ràng đâu là rác tái chế, đâu là rác hữu cơ, và phân loại để làm gì khi cuối cùng rác có thể lại bị thu gom chung. Nhiều chiến dịch truyền thông vẫn dừng ở mức khẩu hiệu, chưa đi vào chi tiết, chưa tạo ra động lực mạnh mẽ để người dân thay đổi hành vi.

Ngoài ba nút thắt này, một số khó khăn về cơ chế, chính sách cũng khiến quá trình triển khai bị chậm trễ.

Bà Dương Thị Thanh Xuyến chỉ ra rằng nhiều địa phương chưa ban hành định mức kinh tế – kỹ thuật, đơn giá thu gom, vận chuyển, xử lý rác, dẫn đến khó khăn trong việc ký kết hợp đồng dịch vụ với các đơn vị công ích.

Có thể nói, hạ tầng thiếu đồng bộ, thói quen xã hội chưa thay đổi và truyền thông chưa hiệu quả đang đan xen, tạo thành vòng luẩn quẩn. Nếu không giải quyết đồng bộ cả ba nút thắt này cùng với hoàn thiện cơ chế quản lý, rất khó để phân loại rác tại nguồn trở thành thói quen lâu dài, gắn chặt vào đời sống đô thị.

Ba năm – Liệu có đủ để thay đổi?

Theo chia sẻ của ông Hồ Kiên Trung, Cục phó Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tại buổi họp báo hưởng ứng ngày Môi trường thế giới và tháng hành động vì môi trường năm 2025, lộ trình phân loại rác tại nguồn sẽ được thực hiện trong vòng ba năm để các địa phương có thời gian chuẩn bị. Song, nhìn vào thực tế hiện nay, câu hỏi đặt ra là: Liệu ba năm có đủ để giải quyết tất cả những “nút thắt” về hạ tầng, nguồn lực, thói quen và cơ chế giám sát?

Đánh giá về tình trạng chậm trễ của nhiều địa phương trong việc triển khai quy định phân loại rác, GS.TS Đặng Thị Kim Chi, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cho rằng không nên bi quan, bởi sự chậm trễ này xuất phát từ việc hệ thống chưa đồng bộ.

8.jpg

Theo GS.TS Đặng Thị Kim Chi, việc phân loại rác tại nguồn không thể thực hiện theo cách “một chiều” hay “cưỡng ép”, mà cần có sự chuẩn bị đồng bộ cả về cơ sở hạ tầng, công nghệ, cơ chế tài chính lẫn chính sách hỗ trợ phù hợp với đặc thù từng địa phương. Sự tích cực, chủ động của chính quyền cơ sở là yếu tố quan trọng, song song với việc nâng cao nhận thức của cộng đồng.

“Tôi mong chờ ở các địa phương một sự vào cuộc mạnh mẽ hơn, nhưng đồng thời Nhà nước cũng phải đầu tư, ban hành chính sách và cơ chế phù hợp để bảo đảm việc thu gom và xử lý rác sau phân loại được thực hiện đúng hướng,” bà nhấn mạnh.

Về việc từ năm 2022, nước ta đã có quá trình chuẩn bị nhưng đến nay vẫn còn nhiều địa phương chưa đồng bộ về chính sách và hạ tầng, GS.TS Đặng Thị Kim Chi cho rằng cần nhìn vào đặc thù cụ thể của từng nơi. Điều kiện kinh tế, địa lý, trình độ dân trí khác nhau đòi hỏi giải pháp xử lý khác nhau. Một số đô thị như Hà Nội hay Hải Phòng đã có mô hình thí điểm, nhưng phạm vi còn hẹp, chưa thể nhân rộng. Việc mở rộng này chỉ khả thi khi hạ tầng kỹ thuật được hoàn thiện, đồng thời cần có “biện pháp mềm mỏng” để đánh giá tính phù hợp của các mô hình công nghệ trước khi áp dụng đại trà.

Bà cũng lưu ý rằng, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để đi đến giai đoạn phân loại rác tại nguồn đồng bộ với khâu xử lý, các quốc gia thường phải mất hàng chục năm chứ không thể trong “một sớm một chiều”. Do đó, ba năm có thể là mốc khởi đầu quan trọng, nhưng chắc chắn không phải là đích đến cuối cùng. Điều quan trọng là chúng ta tận dụng quãng thời gian này để chuẩn bị nền tảng vững chắc, từ cơ sở hạ tầng, công nghệ đến chính sách và ý thức cộng đồng, để phân loại rác tại nguồn thực sự đi vào cuộc sống.

Sau 8 tháng triển khai, có thể thấy bức tranh phân loại rác tại nguồn ở Việt Nam vẫn còn nhiều gam màu xám. Dù 55 tỉnh, thành (trước khi sáp nhập địa giới hành chính) đã có động thái thực hiện, nhưng phần lớn mới dừng ở mức thí điểm, quy mô nhỏ lẻ. Hạ tầng thu gom – xử lý chưa đồng bộ, công tác tuyên truyền chưa thật sự sâu rộng, trong khi ý thức cộng đồng vẫn chưa đồng đều. Một số mô hình thí điểm bước đầu phát huy hiệu quả, song chưa đủ mạnh để tạo thành phong trào lan tỏa trên phạm vi rộng.

Thực tế trên phần nào đã được các đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường thừa nhận trong những buổi họp báo, hội nghị chuyên đề gần đây, khi chỉ ra những khó khăn về hạ tầng, nguồn lực và sự đồng bộ trong triển khai. Tuy nhiên, khi phóng viên Tạp chí Môi trường & Cuộc sống liên hệ để có một buổi làm việc trực tiếp, làm rõ hơn những đánh giá thực trạng cũng như nguyên nhân khiến việc phân loại rác sau nhiều tháng vẫn chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, nhưng nhiều tháng qua Bộ Nông nghiệp và Môi trường vẫn chưa có phản hồi. Đây cũng sẽ là nội dung tiếp nối trong Bài 2 của chuyên đề, với mong muốn đi tìm câu trả lời thẳng thắn hơn cho câu hỏi: Vì sao một chính sách đúng đắn lại gặp quá nhiều “điểm nghẽn” trong thực tế triển khai?

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
}
Phân loại rác tại nguồn: 8 tháng nhìn lại, nhiều kỳ vọng vẫn dang dở
(*) Bản quyền thuộc về Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.