Biến rác thải thành tài nguyên (Bài 2): Rác thải – Áp lực hay cơ hội?
Không riêng gì Việt Nam mà phần lớn các quốc gia trên thế giới đều đang phải đối mặt với những khó khăn trong vấn đề xử lý rác thải bởi không chỉ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, đe dọa các loài sinh vật mà nó còn làm suy giảm nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng.

Tình trạng rác thải đã khiến nhiều địa điểm du lịch trên thế giới phải đóng cửa tạm thời hoặc vô thời hạn. Ví dụ như vịnh Maya (Thái Lan), san hô trên đảo Giáng Sinh (Úc) và Boracay (Philippines) là những trường hợp điển hình. Việc đóng cửa này là để bảo vệ môi trường và hệ sinh thái khỏi tác động tiêu cực của rác thải và du lịch quá tải. Bài viết thuộc Chuyên đề: "Biến rác thải thành tài nguyên – Hướng đi cho phát triển bền vững".
.jpg)
Tuy nhiên, vẫn có rất nhiều quốc gia tạo được những thành tựu đáng tự hào như: Thụy Điển có đến 99% rác thải sinh hoạt được xử lý và tiếp tục nhập khẩu rác từ các quốc gia trên thế giới, tạo thành một nền công nghiệp có thặng dư cao.
Hay những quốc gia như Nhật Bản, Đức, Thụy Điển, Singapore đã chứng minh rằng: quản lý rác thông minh có thể tạo ra giá trị kinh tế lớn, giảm thiểu ô nhiễm và thúc đẩy phát triển bền vững.
Nghịch lý toàn cầu: Một bên ngập rác – một bên thiếu nguyên liệu
Điều nghịch lý là trong khi khối lượng rác tăng nhanh và gây áp lực lên hệ thống môi trường, thì ở chiều ngược lại, ngành công nghiệp thế giới lại đang đối mặt với tình trạng khan hiếm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, đặc biệt là nhựa, kim loại, giấy và sợi tái chế.
Trong bối cảnh một số quốc gia siết chặt chính sách nhập khẩu chất thải và phế liệu – điển hình là Trung Quốc với chính sách “Zero Waste” và lệnh cấm nhập khẩu rác thải từ năm 2018 – nhiều dòng phế liệu, trong đó có thép phế liệu, đã chuyển hướng mạnh sang khu vực Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất bao bì, nhựa kỹ thuật, giấy tái chế… phải nhập khẩu hàng triệu tấn nguyên liệu mỗi năm, trong khi một lượng lớn rác có khả năng tái chế lại bị chôn lấp hoặc đốt bỏ.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2015, Việt Nam nhập khoảng 3,2 triệu tấn thép phế liệu. Con số này đạt đỉnh vào năm 2021 với 6,33 triệu tấn, sau đó giảm xuống còn 4,1 triệu tấn trong năm 2022 nhờ các biện pháp kiểm soát như yêu cầu ký quỹ bảo vệ môi trường đối với doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên, đến năm 2024, lượng nhập lại tăng lên 4,9 triệu tấn, cho thấy xu hướng phục hồi rõ rệt.

Cũng theo Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 2 triệu tấn thép phế liệu, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trị giá kim ngạch đạt gần 650 triệu USD, dù giá nhập trung bình giảm mạnh gần 17,6%, xuống còn 315,8 USD/tấn.
Riêng trong tháng 4, Việt Nam đã nhập 656.000 tấn thép phế liệu, tương đương hơn 200 triệu USD, tăng 15,6% về lượng và 17,7% về trị giá so với tháng trước đó.
Việc giá nhập khẩu giảm trong khi lượng nhập tăng cho thấy nhu cầu trong nước đối với loại nguyên liệu này đang có xu hướng phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, vốn là ngành tiêu thụ thép lớn nhất.
Mỹ và Nhật Bản là hai đối tác lớn cung cấp thép phế liệu cho Việt Nam trong đó Nhật Bản là đối tác lớn nhất. Trong 4 tháng đầu năm, lượng hàng nhập từ Nhật đạt hơn 1,12 triệu tấn, trị giá 380,48 triệu USD, tăng 31,1% về lượng và 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Mỹ là thị trường cung ứng lớn thứ hai với 188.806 tấn, trị giá 58,07 triệu USD (tăng lần lượt 29,6% và 4,89%). Úc đứng ở vị trí thứ ba với 151.220 tấn, trị giá 52,39 triệu USD, tăng 28,14% về lượng và 7,48% về trị giá.

Như đã đề cập, năm 2024, lượng thép phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam đạt 4,92 triệu tấn, tăng 14% so với năm trước, tuy nhiên vẫn thấp hơn mức đỉnh 6,34 triệu tấn của năm 2021. Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 1,8 tỷ USD, với giá trung bình 368,43 USD/tấn.
Trong đó, riêng thép phế liệu nhập từ Nhật Bản đã đạt 2,6 triệu tấn, trị giá 991 triệu USD, tương đương mức giá 381,41 USD/tấn – tăng 58,21% về lượng và 46,36% về trị giá so với năm 2023.
Để kiểm soát chất lượng và hạn chế rủi ro ô nhiễm từ phế liệu nhập khẩu, năm ngoái, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành 5 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với các loại phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, gồm phế liệu sắt thép, giấy, nhựa, thủy tinh, kim loại màu.
Rác thải đang trở thành một trong những thách thức môi trường lớn nhất thế kỷ 21. Tuy nhiên, đằng sau những con số khổng lồ về lượng rác thải lại là một thực tế ít được nhìn nhận: rác không chỉ là gánh nặng mà còn là nguồn tài nguyên nếu biết cách tận dụng. Từ nghịch lý “thừa rác – thiếu nguyên liệu”, câu hỏi đặt ra là: Chúng ta sẽ tiếp tục chôn lấp tài nguyên hay bắt đầu khai thác "mỏ vàng" từ những gì đang bị bỏ quên?
Coi rác là tài nguyên – cách nhìn mới cho phát triển bền vững
Khái niệm “rác là tài nguyên” không còn là điều xa lạ trong các chiến lược phát triển bền vững. Trong mô hình kinh tế tuần hoàn, rác không phải là điểm kết thúc của chuỗi sản xuất – tiêu dùng, mà là điểm khởi đầu cho một vòng tuần hoàn mới. Chất thải, nếu được thu hồi, tái chế và tái sử dụng đúng cách, có thể tạo ra giá trị vật chất, năng lượng, thậm chí là cơ hội kinh tế và việc làm.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) từng nhấn mạnh: “Chất thải là tài nguyên chưa được khai thác.” Nhiều quốc gia tiên tiến đã và đang chuyển đổi hệ thống thu gom – xử lý rác sang hướng "khai thác tài nguyên từ chất thải" như một chiến lược dài hạn để giảm lệ thuộc vào nguyên liệu thô.

Giá trị tiềm ẩn trong rác thải: Không chỉ là vật liệu, mà còn là năng lượng, dữ liệu. Nếu được phân loại và xử lý hiệu quả, rác có thể chia thành bốn nhóm tài nguyên cơ bản sau:
1. Tài nguyên vật liệu
Kim loại: Đồng, nhôm, sắt, kẽm… có thể thu hồi từ đồ điện tử, lon nước, thiết bị công nghiệp.
Nhựa: HDPE, PET, PP… được tái chế thành hạt nhựa, sợi dệt, vật liệu xây dựng.
Giấy, bìa: Được tái chế thành giấy in, bao bì carton, giấy vệ sinh.
Thủy tinh, gỗ, vải: Có thể dùng lại trong xây dựng, thủ công mỹ nghệ hoặc các sản phẩm tái thiết kế (upcycle).
2. Tài nguyên sinh học
Rác hữu cơ: Gồm rau quả thừa, xác động vật, thức ăn dư thừa, có thể ủ thành phân compost hoặc sản xuất phân hữu cơ vi sinh.
Chất thải chăn nuôi: Dùng trong các hệ thống hầm biogas, tạo ra khí đốt cho sinh hoạt hoặc chạy máy phát điện.
3. Tài nguyên năng lượng
Đốt rác phát điện: Một tấn rác có thể sinh ra 500–600 kWh điện, tùy công nghệ và thành phần rác.
RDF (Refuse Derived Fuel): Viên nén nhiên liệu làm từ rác khó phân hủy, dùng thay than trong công nghiệp xi măng, luyện kim.
Khí metan từ rác chôn lấp: Có thể thu gom và chuyển hóa thành điện năng.
4. Tài nguyên dữ liệu từ rác điện tử
Kim loại quý: Vàng, bạc, palladium… tồn tại trong bo mạch, chip, điện thoại cũ.
Thông tin kỹ thuật và dữ liệu cá nhân: Có giá trị đặc biệt trong ngành công nghệ thông tin và nghiên cứu vật liệu.
Vì sao rác thải chưa được coi là tài nguyên?
Dù câu chuyện biến rác thành tài nguyên đã được đề cập trong nhiều năm, nhưng thực tế tại Việt Nam, rác thải vẫn đang được nhìn nhận như một vấn đề môi trường hơn là nguồn tài nguyên có giá trị.

Có 5 lý do chính khiến Việt Nam chưa thực sự coi rác thải là tài nguyên.
Thứ nhất, việc phân loại rác tại nguồn dù một số địa phương đã triển khai thí điểm, nhưng phần lớn rác sinh hoạt hiện nay vẫn là rác hỗn hợp, chưa được tách riêng giữa rác hữu cơ, rác tái chế và rác vô cơ. Điều này khiến quá trình tái chế hoặc xử lý rác để thu hồi tài nguyên trở nên tốn kém, kém hiệu quả, thậm chí không khả thi. Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, nhưng việc triển khai phí rác thải theo khối lượng, theo chất lượng mới chỉ ở giai đoạn khởi động.
Thứ hai, hạ tầng và công nghệ xử lý rác vẫn còn phụ thuộc lớn vào chôn lấp. Theo báo cáo tổng kết kết quả thực hiện đồ án quy hoạch xử lý chất thải rắn TP.HCM đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng công nghệ đốt không thu hồi năng lượng, compost, tái chế chỉ đạt 33% quá thấp so với 67% còn lại đang được xử lý bằng công nghệ chôn lấp hợp vệ sinh.
Tương tự, tại Hà Nội, dù Nhà máy điện rác Thiên Ý đi vào hoạt động nhưng mỗi ngày chỉ xử lý được khoảng 5.500 tấn rác, còn lại 2.500 - 3.000 tấn rác vẫn phải sử dụng phương pháp chôn lấp. Chưa kể lượng rác từ năm 2022 trở về trước, hơn 90% trong tổng số 7.000 tấn rác/ngày được các khu xử lý rác thải sinh hoạt tập trung của thành phố tiếp nhận chỉ xử lý thông qua chôn lấp. Cách làm này không chỉ chiếm nhiều diện tích đất mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ về môi trường như ô nhiễm đất, nước, không khí và phát thải khí nhà kính và bỏ phí nguồn tài nguyên có thể tái chế hoặc thu hồi năng lượng.
Thứ ba, chính sách chưa tạo động lực đủ mạnh để biến rác thành tài nguyên. Chi phí xử lý rác bằng công nghệ hiện đại như đốt phát điện hay tái chế cao hơn nhiều so với chôn lấp, trong khi các cơ chế hỗ trợ tài chính, ưu đãi đầu tư, trợ giá cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Các khu xử lý lớn như Nam Sơn (Hà Nội) hay Đa Phước (TP.HCM) bước đầu đã phát huy hiệu quả nhưng việc áp dụng công nghệ hiện đại như đốt rác phát điện, tái chế chưa được triển khai rộng rãi. Mô hình kinh tế tuần hoàn, chính sách về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) mới đang trong giai đoạn triển khai bước đầu.
Chính sách thu gom, vận chuyển cũng chưa gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn.

Thứ tư, nhận thức xã hội còn hạn chế, thói quen tiêu dùng chưa thay đổi. Đa số người dân vẫn coi rác là thứ bỏ đi, chưa nhận thức được rằng rác nếu được phân loại và xử lý đúng cách hoàn toàn có thể trở thành nguồn nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành sản xuất. Thói quen tiêu dùng nhanh, tiện lợi, sử dụng nhiều nhựa dùng một lần vẫn phổ biến đã tạo ra khối lượng lớn rác thải nhựa và vô cơ khó xử lý trong khi ý thức phân loại tại nguồn còn yếu. Đã thế các chiến dịch truyền thông, giáo dục cộng đồng do quy mô chưa lớn và không liên tục nên hiệu quả mới chỉ dừng ở việc vận động, tuyên truyền, chưa đủ để thay đổi hành vi của người tiêu dùng.
Thứ năm là các doanh nghiệp sản xuất chưa chủ động thực hiện trách nhiệm thu hồi, tái chế bao bì, sản phẩm sau sử dụng.
Theo quy định của Luật BVMT năm 2024 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ, từ ngày 1/1/2024, các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu săm lốp, pin, ắc quy, dầu nhớt và bao bì thương phẩm của một số sản phẩm sẽ phải thực hiện trách nhiệm tái chế theo tỷ lệ, quy cách tái chế bắt buộc, nhằm hướng đến kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn bền vững. Cụ thể, tỷ lệ tái chế bắt buộc cho 3 năm đầu tiên đối với săm lốp là 5%; các loại pin sử dụng cho phương tiện giao thông (như Li, NiMH) và pin sử dụng cho các thiết bị điện-điện tử là 8%; tỷ lệ tái chế bắt buộc đối với ắcquy từ 8-12%, tùy từng loại (trong đó ắcquy chì 12%, ắcquy các loại khác 8%). Tỷ lệ tái chế bắt buộc đối với bao bì là từ 10 - 22%, tùy từng loại (như giấy carton là 20%, bao bì giấy hỗn hợp 15%, bao bì nhôm 22%, bao bì nhựa PET là 22%, bao bì sắt và kim loại khác 20%); chai, lọ, hộp thủy tinh 15%... Riêng các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu có tổng doanh thu từ bán hàng, cung cấp dịch vụ của năm trước dưới 30 tỷ đồng hoặc có tổng giá trị nhập khẩu (tính theo trị giá hải quan) của năm trước dưới 20 tỷ đồng thì không phải thực hiện trách nhiệm tái chế bao bì. Tuy nhiên, không ít doanh nghiệp sản xuất chưa chủ động thực hiện trách nhiệm thu hồi, tái chế bao bì, sản phẩm sau sử dụng.
Cuối cùng, tốc độ đô thị hóa nhanh kéo theo lượng rác thải tăng vượt khả năng xử lý. Tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, mỗi ngày phát sinh hàng nghìn tấn rác, khiến áp lực xử lý trở thành bài toán nan giải. Trước áp lực phải “giải quyết nhanh” để tránh ùn ứ rác, nhiều địa phương buộc phải lựa chọn giải pháp chôn lấp thay vì đầu tư dài hạn cho các công nghệ xử lý hiện đại.
Nhìn từ thực tế này, có thể thấy, việc chưa coi rác là tài nguyên không chỉ xuất phát từ vấn đề công nghệ hay tài chính, mà còn là bài toán nhận thức, chính sách và định hướng phát triển. Nếu không nhanh chóng thay đổi cách tiếp cận, từ xử lý rác sang quản lý rác như một loại tài nguyên, Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với những hệ lụy ngày càng nghiêm trọng về môi trường và lãng phí nguồn lực.

Theo Cục Môi trường, cả nước hiện có 1.548 cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, trong đó đốt phát điện có 7 cơ sở; đốt không phát điện 333 cơ sở; dây chuyền sản xuất phân compost có 30 cơ sở; còn lại chủ yếu là bãi chôn lấp với 1.178 địa điểm.
Phát biểu tại Hội thảo quản lý chất thải rắn sinh hoạt và thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất do Sở Nông nghiệp và Môi trường Hưng Yên phối hợp với Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chiều 3/7/2025 tại Hưng Yên, ông Hồ Kiên Trung – Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, công tác triển khai, phối hợp của các bộ, ngành và địa phương chưa đồng bộ; chưa tập trung vào các giải pháp cấp bách để chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết đáp ứng yêu cầu quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Ở địa phương, các đơn vị còn lúng túng trong áp dụng đơn giá thu gom, vận chuyển, xử lý sau phân loại; một số định mức, đơn giá áp dụng của địa phương chưa phù hợp, nhất là vùng nông thôn, miền núi, hải đảo đòi hỏi phải có định mức, đơn giá đặc thù.
Cả nước chưa có cơ sở hạ tầng để xử lý chất thải rắn sinh hoạt sau phân loại như cơ sở xử lý tập trung chất thải thực phẩm thành mùn/phân hữu cơ; chưa có hạ tầng để tiếp nhận chất thải có thể tái chế, tái sử dụng; công nghệ chôn lấp vẫn là chủ yếu (chiếm 64%).