Bài 4: Hướng tới tương lai không túi nilon – Giải pháp nào khả thi
Mỗi ngày, hàng triệu chiếc túi nilon dùng một lần được phát miễn phí ở các chợ dân sinh, cửa hàng tạp hóa. Thói quen tiêu dùng này đang tạo nên một “núi rác thải nhựa” khổng lồ, len lỏi từ bãi rác, kênh rạch đến tận biển khơi, đe dọa sức khỏe con người và sự cân bằng sinh thái.

Trong bối cảnh Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có mức tiêu thụ túi nilon cao hàng đầu thế giới, trong khi tỷ lệ thu gom, tái chế lại rất thấp, vấn đề này ngày càng trở nên cấp bách. Túi nilon vốn được coi là biểu tượng của sự tiện lợi, nhưng chính sự “tiện lợi” đó đã biến nó thành gánh nặng môi trường kéo dài hàng trăm năm mới phân hủy.
Không chỉ dừng ở câu chuyện rác thải, túi nilon còn đặt ra nhiều thách thức đối với mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam đã cam kết vàg hướng tới Net Zero vào năm 2050. Việc kiểm soát nhựa dùng một lần, trong đó có túi nilon không chỉ là trách nhiệm môi trường mà còn gắn với uy tín quốc gia và hội nhập quốc tế.
Với chức năng là một Tạp chí chuyên ngành về môi trường, Tạp chí Môi trường và Cuộc sống nhận thấy việc quyết định triển khai tuyến bài “Túi nilon – từ gánh nặng môi trường đến giải pháp sinh học xanh” là cần thiết và cấp bách. Tuyến bài sẽ đi sâu vào các vấn đề sau: Thực trạng sử dụng túi nilon tại Việt Nam, từ chợ truyền thống đến hệ thống bán lẻ hiện đại; Những hệ lụy môi trường – kinh tế – xã hội từ thói quen sử dụng một lần rồi bỏ; Nỗ lực chuyển đổi của doanh nghiệp, chính quyền và cộng đồng trong việc giảm thiểu, thay thế túi nilon; Giải pháp hướng tới một tương lai “không túi nilon”, nơi các sản phẩm sinh học xanh dần thay thế hoàn toàn.
Đặt vấn đề như vậy không chỉ nhằm phản ánh thực trạng, mà còn để khơi gợi sự chung tay của toàn xã hội, từ nhà quản lý, doanh nghiệp đến mỗi người dân trong cuộc chiến chống rác thải nhựa, bảo vệ hệ sinh thái và xây dựng lối sống bền vững.
Nhận thức được tác hại của túi nilon đối với môi trường và sức khoẻ cộng đồng nên một số quốc gia đã yêu cầu người tiêu dùng phải trả tiền túi nilon khi mua hàng để khuyến khích người dân tái sử dụng túi nilon hoặc sử dụng các loại túi thân thiện với môi trường. Một số quốc gia ở châu Phi như: Uganda, Kenya, Tanzania cũng có nhưng động thái cấm nhập khẩu, sản xuất, tăng thuế đối với túi nhựa nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường.

Tại nhiều quốc gia châu Âu, mô hình cửa hàng không rác thải xuất hiện ngày càng nhiều, thu hút đông đảo tầng lớp tiêu dùng trẻ, có học vấn và ý thức cao về lối sống xanh. Họ sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho những sản phẩm thân thiện với môi trường, coi việc mua hàng không rác thải không chỉ là một giao dịch thương mại, mà còn là cách thể hiện giá trị sống.

Có thể thấy một trong những giải pháp hạn chế rác thải nhựa chính là thay đổi cách cung ứng túi cho người tiêu dùng. Tại Việt Nam, các hệ thống bán lẻ lớn đã bắt đầu chuyển mình, song mức độ áp dụng còn chênh lệch.
Siêu thị “xanh” – bước đi chưa đồng bộ
Theo quy định tại Điều 64 Nghị định 08/2022/NĐ-CP, lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa sẽ được tiến hành từ ngày 01/01/2026.
Lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một
lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa:
1. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2026, không sản xuất và nhập khẩu túi ni lông khó phân hủy sinh học có kích thước nhỏ hơn 50 cm x 50 cm và độ dày một lớp màng nhỏ hơn 50 µm, trừ trường hợp sản xuất để xuất khẩu hoặc sản xuất, nhập khẩu để đóng gói sản phẩm, hàng hóa bán ra thị trường.
2. Tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học phải thực hiện trách nhiệm tái chế, xử lý theo quy định tại Nghị định này.
3. Giảm dần việc sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa. Sau ngày 31 tháng 12 năm 2030, dừng sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần (trừ sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái Việt Nam), bao bì nhựa khó phân hủy sinh học (gồm túi ni lông khó phân hủy sinh học, hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm) và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa, trừ trường hợp sản xuất để xuất khẩu và trường hợp sản xuất, nhập khẩu bao bì nhựa khó phân hủy sinh học để đóng gói sản phẩm, hàng hóa bán ra thị trường.
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định và tổ chức triển khai hoạt động quản lý chất thải nhựa; bảo đảm sau năm 2025, không lưu hành và sử dụng sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học (gồm túi ni lông khó phân hủy sinh học, hộp nhựa xốp đóng gói, chứa đựng thực phẩm) tại các trung tâm thương mại, siêu thị, khách sạn, khu du lịch, trừ sản phẩm, hàng hóa có bao bì nhựa khó phân hủy sinh học; tổ chức thanh tra, kiểm tra các đơn vị sản xuất sản phẩm nhựa sử dụng một
lần và bao bì nhựa khó phân hủy sinh học trên địa bàn.Điều 64 Nghị định 08/2022/NĐ-CP
Như vậy, theo quy định trên, từ sau năm 2025 sẽ không được lưu hành và sử dụng sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học tại các trung tâm thương mại, siêu thị, khách sạn, khu du lịch, trừ sản phẩm, hàng hóa có bao bì nhựa khó phân hủy sinh học.
Lộ trình hạn chế sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần được quy định cụ thể, từ việc cấm sản xuất túi nilon nhỏ đến việc dừng hoàn toàn sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần vào năm 2030. Điều này cho thấy nhà nước đã có sự chuẩn bị và tính toán tính khả thi trong việc thực hiện các chính sách môi trường.
Anh Trần Công Minh, tiểu thương bán xôi tại phường Tương Mai, Hà Nội cho biết: “Trung bình mỗi ngày, sạp hàng của tôi tiêu thụ khoảng 0,5kg túi nilon. Túi nilon rất tiện và rẻ. Tuy nhiên, nếu có quy định cấm phát miễn phí, tôi sẽ nghiêm túc thực hiện. Khách hàng sẽ phải mang theo vật dụng đựng thực phẩm. Tôi cũng mong Nhà nước có hướng dẫn cụ thể về các sản phẩm thay thế trước khi quy định có hiệu lực”.

Bà Trần Kim Loan, tiểu thương bán cá tại chợ đầu mối phía Nam phường Hoàng Mai, Hà Nội, cũng cho rằng, việc hạn chế sử dụng túi nilon và hộp xốp khó phân hủy là chủ trương đúng đắn, cần thiết để bảo vệ môi trường. Tuy vậy, bà bày tỏ mong muốn: “Sản phẩm thay thế nên có giá thành hợp lý để tiểu thương không bị tăng chi phí”.
Tuy nhiên, việc cấm sử dụng túi nilon và sản phẩm nhựa khó phân hủy có thể ảnh hưởng đến các ngành sản xuất và tiêu dùng. Doanh nghiệp sẽ phải tìm kiếm và chuyển đổi sang các giải pháp thay thế thân thiện với môi trường, điều này có thể tạo ra cơ hội cho các sản phẩm sinh thái và công nghệ mới. Song, cũng cần có thời gian và đầu tư để chuyển đổi.
Tại nhiều siêu thị như Co.opmart, Lotte Mart, GO!/Big C, Winmart, khách hàng đã quen dần với hình ảnh túi nilon tự hủy, túi giấy hoặc túi vải tái sử dụng. Một số đơn vị triển khai chương trình đổi túi nilon lấy quà, hoặc khuyến khích khách mang túi cá nhân bằng việc giảm giá, tích điểm.

Ví dụ, Saigon Co.op đã thay thế toàn bộ túi nilon thường bằng túi tự hủy sinh học, đồng thời bán túi vải “3R” (Reduce, Reuse, Recycle) cho khách. Lotte Mart từng gây chú ý khi thí điểm gói rau bằng lá chuối. Một vài chợ dân sinh ở Hội An, Huế, Đà Nẵng thử nghiệm dùng lá chuối gói hàng thay túi nhựa. Các chiến dịch “Nói không với túi nilon”, “Ngày không túi nhựa” đã được phát động ở nhiều địa phương trong nhiều năm trở lại đây.
Tuy nhiên, những mô hình này vẫn mang tính điểm nhấn, chưa lan tỏa sâu rộng. Ở hầu hết chợ truyền thống, túi nilon vẫn “thống trị tuyệt đối”. Các cửa hàng tiện lợi vốn ngày càng phát triển ở đô thị lại chưa mạnh tay thay thế, phần vì chi phí túi sinh học còn cao, phần vì khách hàng chưa quen trả thêm tiền cho túi hoặc chưa mặn mà với việc mang túi cá nhân khi đi mua sắm.

Ngoài ra, khâu quản lý cũng còn hạn chế. Mặc dù từ năm 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20 tháng 8 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa và Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030, nhưng chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe. Trong khi đó, doanh nghiệp túi sinh học gặp nhiều khó khăn về vốn và công nghệ nên thị trường vẫn là “sân chơi” chủ yếu của các cơ sở sản xuất túi nilon truyền thống.
Thạc sỹ, Luật sư Hoàng Thị Hương Giang (Văn phòng luật sư Chính Pháp) cho rằng việc sản xuất, sử dụng và xử lý túi nilon khó phân hủy đã được quy định tại Luật bảo vệ môi trường năm 2020 và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 và các văn bản có liên quan khác. Tuy nhiên, trên thực tế, việc hạn chế túi nilon khó phân hủy mới đạt kết quả nhất định tại một số siêu thị, trung tâm thương mại, nơi có điều kiện áp dụng các biện pháp thay thế. Nhưng ở chợ dân sinh và cửa hàng nhỏ lẻ, túi nilon vẫn được sử dụng tràn lan, thậm chí phát miễn phí cho khách. Điều này cho thấy khoảng cách khá lớn giữa quy định pháp luật và thực tiễn triển khai.

Cửa hàng tiện ích – chuyển đổi chậm
Khái niệm “cửa hàng không rác thải” đang thu hút sự chú ý của cộng đồng, đặc biệt là người tiêu dùng trẻ, những người quan tâm nhiều hơn đến trách nhiệm cá nhân đối với hành tinh. Đây được xem là mô hình tiêu dùng đầy tiềm năng, dù hiện tại vẫn còn không ít rào cản để có thể thực sự bùng nổ tại Việt Nam.
Điểm nổi bật của cửa hàng không rác thải nằm ở cách tiếp cận hoàn toàn khác so với thói quen mua sắm truyền thống. Thay vì xếp đầy kệ bằng những sản phẩm đóng gói sẵn trong bao bì nhựa hay túi nilon, các cửa hàng này khuyến khích khách hàng tự mang theo túi vải, hũ thủy tinh, chai hoặc hộp tái sử dụng để đựng hàng hóa. Sản phẩm thường được bày bán ở dạng “rời” – từ các loại ngũ cốc, hạt khô, đậu, gạo, dầu ăn cho đến đồ tẩy rửa, mỹ phẩm chăm sóc cá nhân. Cách thức này giúp giảm đáng kể lượng rác thải nhựa thải ra môi trường, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về tiêu dùng bền vững, bởi mỗi người mua sắm không chỉ mang về một món đồ, mà còn thực sự góp một phần nhỏ vào hành động bảo vệ hành tinh.
Mô hình cửa hàng không rác thải đã phát triển mạnh ở nhiều quốc gia châu Âu. Ở Đức, Pháp hay Anh, những cửa hàng dạng này xuất hiện ngày càng nhiều, thu hút đông đảo tầng lớp tiêu dùng trẻ, có học vấn và ý thức cao về lối sống xanh. Họ sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho những sản phẩm thân thiện với môi trường, coi việc mua hàng không rác thải không chỉ là một giao dịch thương mại, mà còn là cách thể hiện giá trị sống. Các doanh nghiệp cũng nhìn thấy cơ hội trong thị trường ngách này, không chỉ ở lĩnh vực thực phẩm mà còn mở rộng sang mỹ phẩm, thời trang, đồ gia dụng… tạo nên một hệ sinh thái tiêu dùng mới gắn liền với tính bền vững.
Chậm hơn so với Hàn Quốc và Nhật Bản, các hệ thống siêu thị lớn ở Singapore đã bắt đầu tính phí túi nhựa dùng 1 lần từ tháng 7/2023. Theo đó, hơn 400 cửa hàng (2/3 tổng số siêu thị ở Singapore) đã yêu cầu tính phí người tiêu dùng ít nhất 0,05$ Sing (0,04$ Mỹ) cho mỗi túi dùng 1 lần và được áp dụng cho các loại túi bất kể chất liệu. Đây được coi là một động thái của Chính phủ nhằm khuyến khích người dân sử dụng các loại túi tái sử dụng. Tuy nhiên, túi nhựa vẫn là loại được sử dụng phổ biến nhất tại các hệ thống như FairPrice, Sheng Siong và Cold Storage.

Tại Việt Nam, vài năm trở lại đây, mô hình cửa hàng không rác thải cũng bắt đầu được thử nghiệm. Ở Hà Nội, TP.HCM hay Đà Nẵng, những cửa hàng nhỏ theo phong cách này đã ra đời, thu hút một bộ phận giới trẻ thành thị, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình khá và phong cách sống hiện đại. Trong không gian mua sắm được thiết kế tối giản, gần gũi với thiên nhiên, khách hàng có thể tự tay chọn từng loại hạt, gạo, mỳ hoặc nước giặt, dầu gội từ những bình chứa lớn để mang về trong chiếc hộp hoặc túi cá nhân. Trải nghiệm này mang lại sự thú vị bởi nó khuyến khích người tiêu dùng trở nên chủ động, có ý thức và sáng tạo hơn trong sinh hoạt hằng ngày. Tuy nhiên, để đi từ trào lưu nhỏ lẻ thành xu hướng rộng khắp, những cửa hàng này còn đối diện với không ít thách thức.
Rào cản đầu tiên chính là giá cả. Do đặc thù kinh doanh đòi hỏi quy trình bảo quản, vận chuyển và quản lý phức tạp, giá sản phẩm ở cửa hàng không rác thải thường cao hơn so với hàng hóa đóng gói sẵn. Điều này khiến nhiều người tiêu dùng, đặc biệt là nhóm thu nhập thấp và trung bình, còn e ngại khi lựa chọn.

Thói quen tiêu dùng lâu đời của người Việt cũng là một thử thách không nhỏ. Việc mua hàng nhanh chóng, gọn nhẹ, đóng gói sẵn đã trở thành nếp sống phổ biến, khiến không ít người cảm thấy phiền toái khi phải chuẩn bị hộp, lọ hay túi riêng để mang đi mua sắm. Ngoài ra, hệ thống phân phối và độ phủ của cửa hàng không rác thải vẫn còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, chưa đủ để tạo thành một xu hướng tiêu dùng rộng rãi.
Theo PGS.TS Lê Văn Hưng - Giảng viên cao cấp Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường, để hạn chế rác thải nhựa cần triển khai đồng bộ ba trụ cột: Hoàn thiện hành lang pháp lý, áp dụng giải pháp khoa học - công nghệ và đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức.
Theo ông, túi nilon hiện quá rẻ, khó kiểm soát việc sử dụng. Do đó, cần ứng dụng công nghệ để giảm giá thành sản phẩm thân thiện với môi trường, đồng thời khuyến khích người dân thay đổi thói quen, chuyển sang dùng các sản phẩm có khả năng phân hủy sinh học.

Tuy nhiên, PGS.TS Lê Văn Hưng nhấn mạnh, việc thay thế túi nilon mới chỉ là một phần. Vấn đề cốt lõi là cần xây dựng bài toán tổng thể trong việc áp dụng công nghệ vào khâu thu gom, tái chế, tái sử dụng chất thải, hướng đến mô hình kinh tế tuần hoàn bền vững.
Một tương lai “không túi nilon” hoàn toàn có thể nếu Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cùng hành động. Bài học từ các quốc gia đi trước cho thấy: cấm, đánh thuế và khuyến khích bao bì sinh học là con đường tất yếu, đồng thời gắn liền với chiến lược kinh tế tuần hoàn.

Kenya là quốc gia đã thành công khi áp dụng lệnh cấm tuyệt đối, người vi phạm có thể bị phạt hàng nghìn USD hoặc phạt tù. Đan Mạch nhờ thuế môi trường từ năm 1994 mà giảm tới 60% lượng túi nilon tiêu thụ. Nhiều nước EU khác cũng áp dụng chính sách “người dùng trả tiền”, buộc người dân cân nhắc trước khi lấy thêm túi.
TS. Hoàng Dương Tùng khẳng định: “Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Nếu không áp dụng cơ chế tài chính như thuế hoặc phí, sẽ rất khó thay đổi thói quen tiêu dùng”.
.jpg)



