Tư duy phát triển xanh trong Văn kiện Đại hội XIV – Định hướng cho hành động
Trong bối cảnh kinh tế – xã hội chịu áp lực ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường và cạn kiệt tài nguyên, việc xây dựng mô hình phát triển mới trở thành yêu cầu cấp bách. Các định hướng trong Văn kiện Đại hội XIII và tiếp tục nhấn mạnh tại Đại hội XIV cho thấy sự chuyển biến tư duy rõ rệt: tăng trưởng nhanh phải gắn với bền vững, đổi mới sáng tạo phải đi đôi với bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên.
Chỉ đạo “phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp là trụ cột của mô hình tăng trưởng mới” đã tạo nên kim chỉ nam chiến lược, định hướng hành động cho các cấp chính quyền, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Quan điểm và định hướng trong Văn kiện Đại hội XIV
Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV xác định mục tiêu tổng quát là phát triển nhanh, bền vững dựa trên cơ sở đổi mới sáng tạo và bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế phải song hành với gìn giữ và cải thiện môi trường sống; không đánh đổi môi trường lấy các lợi ích ngắn hạn. Đây là định hướng xuyên suốt, phản ánh sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo tồn các giá trị xã hội – văn hóa – môi trường, nhằm hướng tới mục tiêu “Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và nhân văn”.

Dự thảo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV cũng đề ra các nhiệm vụ trọng tâm về thể chế quản lý tài nguyên và môi trường cụ thể như sau:
-Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý để phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế cácbon thấp, thiết lập và vận hành sàn giao dịch tín chỉ cácbon nội địa.
-Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giám sát môi trường thời gian thực; quy định bắt buộc báo cáo và kiểm soát chặt chẽ khí thải đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn.
- Ban hành các cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm cơ bản khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị lớn, đặc biệt là ô nhiễm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong 13 định hướng trong văn kiện về phát triển đất nước giai đoạn 2026 – 2030, nêu rõ: “Chủ động hợp tác quốc tế trong việc quản lý và sử dụng nguồn nước bảo đảm lợi ích quốc gia. Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, cơ chế ưu đãi quốc tế phục vụ chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050”.
Điều đó cho thấy Văn kiện Đại hội XIV của Đảng khẳng định, tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa trên tốc độ mà phải hướng tới chất lượng, hiệu quả và bền vững. Trong đó, tăng trưởng xanh được xác định là mục tiêu chiến lược, đi kèm với đổi mới sáng tạo trong sản xuất và quản lý. Tư duy phát triển xanh đặt môi trường và tài nguyên vào trung tâm, nhằm tối ưu hóa lợi ích kinh tế – xã hội – môi trường, hạn chế các hệ lụy lâu dài từ khai thác quá mức và ô nhiễm.
Theo các chuyên gia kinh tế môi trường, kinh tế xanh không chỉ là giải pháp cho môi trường mà còn là cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc triển khai các dự án kinh tế tuần hoàn, năng lượng sạch và công nghệ thân thiện môi trường sẽ tạo ra các chuỗi giá trị mới, đồng thời giảm thiểu rủi ro môi trường trong dài hạn.
Đổi mới sáng tạo – Chìa khóa cho mô hình tăng trưởng mới
“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, thúc đẩy đột phá chiến lược, kiến tạo hệ sinh thái phát triển mới; kiên định, nhất quán mục tiêu ổn định, phát triển, không ngừng nâng cao đời sống, hạnh phúc của Nhân dân; tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước trong đó thể chế chính trị là then chốt; thể chế kinh tế là trọng tâm; các thể chế khác là rất quan trọng”
Đổi mới sáng tạo được xem là trọng tâm để hiện thực hóa tăng trưởng xanh. Văn kiện nêu rõ: “Xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất và phương thức sản xuất mới chất lượng cao, trọng tâm là kinh tế dữ liệu, kinh tế số; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng. Hình thành các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các đặc khu kinh tế thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu”.
Từ đẩy mạnh nghiên cứu – phát triển công nghệ sạch, công nghệ tiết kiệm năng lượng, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng bền vững, không chỉ nâng cao năng suất, giảm chi phí vận hành mà còn đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị trường toàn cầu.

Tư duy kinh tế tuần hoàn – một nội dung quan trọng trong Văn kiện hướng tới giảm chất thải, tái sử dụng tài nguyên và giảm phát thải các-bon. Như vậy, phát triển xanh vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là động lực thúc đẩy năng lực sáng tạo và năng suất lao động.
Từ nhận thức đến hành động: Hiện thực hóa tư duy phát triển xanh
Tư duy phát triển xanh cần được chuyển hóa thành hành động cụ thể ở mọi cấp độ. Chính quyền các địa phương phải xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển xanh, ưu tiên các ngành công nghiệp ít ô nhiễm, năng lượng tái tạo và dịch vụ môi trường. Doanh nghiệp được khuyến khích áp dụng mô hình sản xuất tuần hoàn, công nghệ sạch và quản lý các-bon hiệu quả. Xã hội nói chung cũng cần nâng cao nhận thức về tiêu dùng bền vững và bảo vệ môi trường.
Chỉ đạo của Trung ương về “phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp là trụ cột của mô hình tăng trưởng mới” chính là kim chỉ nam để cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp – xã hội cùng hành động, hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững, gắn liền với bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống.
GS.TS. Phạm Văn Đức, nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, khẳng định rằng Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện bước phát triển mới trong tư duy phát triển khi đặt “bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ trung tâm”.
Theo GS.TS. Phạm Văn Đức, trước đây, phát triển kinh tế thường được xem là trọng tâm, còn môi trường và xã hội mang tính hỗ trợ. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, Đảng đã thể hiện sự đổi mới căn bản trong tư duy phát triển, chuyển từ quan điểm “tăng trưởng trước, xử lý môi trường sau” sang “phát triển hài hòa, thân thiện và cùng tiến với thiên nhiên”.
Đây là bước chuyển có tính chiến lược, xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng: môi trường không chỉ là không gian sống, mà còn là nền tảng, điều kiện và giới hạn của sự phát triển. Phát triển kinh tế – xã hội không thể bền vững nếu không bảo đảm sự an toàn sinh thái và cân bằng tự nhiên. Tư duy “bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trung tâm” phản ánh bước hoàn thiện trong cách tiếp cận phát triển bền vững của Việt Nam dựa trên ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường. Trụ cột kinh tế bảo đảm tăng trưởng, tạo nguồn lực vật chất cho xã hội; trụ cột xã hội hướng tới công bằng, ổn định, phát triển con người; còn trụ cột môi trường giữ vai trò duy trì nền tảng sinh thái, bảo đảm các điều kiện tự nhiên cho sự tồn tại của cả hai trụ cột kia.
Khi môi trường được đặt ngang hàng, tư duy phát triển của chúng ta đã đạt đến sự cân bằng giữa tăng trưởng – tiến bộ xã hội – bảo tồn sinh thái, phù hợp với tinh thần của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc và các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu.
Giải pháp trọng tâm để hiện thực hóa tư duy xanh
Theo GS.TS Phạm Văn Đức, để thực hiện quan điểm “bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trung tâm”, cần triển khai đồng bộ nhiều nhóm chính sách. Trước hết, mọi quy hoạch quốc gia, ngành và địa phương phải lồng ghép chỉ tiêu môi trường như yêu cầu bắt buộc và được thẩm định độc lập. Các chỉ tiêu như năng lượng tái tạo, tái chế rác thải, chất lượng không khí, diện tích rừng hay tỷ lệ sử dụng nước sạch phải được xác định rõ và gắn trách nhiệm với từng cấp chính quyền. Đánh giá “sức chịu tải sinh thái” phải trở thành điều kiện tiên quyết của mọi dự án lớn.

Bên cạnh đó, cần thúc đẩy tài chính xanh thông qua ưu đãi thuế, tín dụng xanh, trái phiếu môi trường và hình thành Quỹ đầu tư phát triển xanh quốc gia. Việc áp dụng cơ chế định giá và giao dịch carbon sẽ giúp tăng nguồn thu đồng thời khuyến khích giảm phát thải.
Ở cấp vùng và địa phương, cần quản trị theo hướng sinh thái, xây dựng bản đồ sinh thái để phân định khu vực phát triển công nghiệp, bảo tồn, nông nghiệp hữu cơ hay đô thị xanh; đồng thời tăng cường liên kết vùng trong bảo vệ nguồn nước, không khí, rác thải và đa dạng sinh học.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, các mục tiêu môi trường phải được lượng hóa rõ ràng, như mức giảm phát thải khí nhà kính, tỷ lệ tái chế chất thải rắn, diện tích rừng tự nhiên bảo tồn hay tỷ lệ năng lượng sạch. Các chỉ tiêu này cần công khai, giám sát độc lập và là tiêu chí đánh giá kết quả thực thi của chính quyền.
Phát triển bền vững cũng đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội. Vì vậy, cần đẩy mạnh giáo dục môi trường, truyền thông và xây dựng phong trào “toàn dân bảo vệ môi trường”, tiến tới hình thành văn hóa sinh thái – coi tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ thiên nhiên, sử dụng năng lượng tái tạo là chuẩn mực của văn minh và lòng yêu nước.
Việc bổ sung “bảo vệ môi trường” cùng với phát triển kinh tế và xã hội là nhiệm vụ trung tâm trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng là bước phát triển có tính lịch sử trong tư duy lý luận của Đảng ta. Điều này khẳng định sự chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình phát triển dựa vào tăng trưởng thuần túy sang mô hình phát triển bền vững, nhân văn và có trách nhiệm.
Đây là sự lựa chọn đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về tương lai đất nước, hướng tới một nền kinh tế tự chủ, một xã hội công bằng, văn minh và một môi trường trong lành – ba yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp cho Việt Nam trong thế kỷ XXI. Khi “bảo vệ môi trường” trở thành nhiệm vụ trung tâm, cũng có nghĩa là bảo vệ điều kiện sinh tồn của dân tộc, bảo vệ nền tảng cho phát triển lâu dài và hạnh phúc của nhân dân. Đó là minh chứng cho một tư duy phát triển mới – tư duy của kỷ nguyên xanh; trong đó phát triển không còn là sự đối lập với thiên nhiên, mà là nghệ thuật sống hài hòa với tự nhiên, vì con người và vì tương lai bền vững của Tổ quốc.
Phát biểu tại buổi tiếp Đoàn đại biểu tham dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 7 diễn ra sáng 26/10/2025 tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh:
"Với chúng tôi, phát triển nhanh và bền vững là một thực thể thống nhất. Tăng trưởng chỉ có ý nghĩa nếu từng người dân được hưởng thành quả phát triển theo cách công bằng, an toàn và nhân văn; chất lượng cuộc sống thực của người dân được nâng cao; không ai bị bỏ lại phía sau; tương lai của thế hệ mai sau không bị đánh đổi để đáp ứng lợi ích trước mắt của thế hệ hôm nay. Do đó, chúng tôi chủ trương phát triển dựa trên ba trụ cột gắn bó chặt chẽ với nhau.

Thứ nhất, phát triển thể chế, chính sách, quản trị quốc gia theo hướng tự chủ chiến lược, hiện đại, minh bạch, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một Nhà nước vừa kiến tạo phát triển, vừa bảo đảm công bằng xã hội, vừa kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm. Đây là trọng tâm chính trị của chúng tôi.
Thứ hai, phát triển con người Việt Nam toàn diện. Giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, văn hóa. Đây được coi là những yếu tố căn cốt, là nguồn lực trực tiếp của phát triển. Tôi khẳng định rằng: Tài nguyên quý nhất của Việt Nam không phải là khoáng sản, không phải là vị trí địa - chiến lược, mà chính là 106 triệu người Việt Nam hiện nay, những người cần cù, sáng tạo, giàu lòng yêu nước, giàu ý thức cộng đồng, ham học hỏi và biết vươn lên trong hoàn cảnh khó khăn. Nếu không giải phóng và phát huy tối đa sức mạnh trí tuệ, đạo đức, nhân cách, tinh thần trách nhiệm xã hội của mỗi người Việt Nam, chúng tôi sẽ khó có thể vươn tới mục tiêu đề ra.
Thứ ba, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế số, gắn với khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Con đường phát triển bền vững trong thế kỷ XXI không thể chỉ dựa vào khai thác tài nguyên vật chất, lao động giá rẻ hay lợi thế truyền thống, mà phải dựa vào tri thức, công nghệ, sáng tạo và quản trị thông minh. Việt Nam ý thức rất rõ trách nhiệm của mình trước thách thức biến đổi khí hậu, nước biển dâng, suy thoái đa dạng sinh học, cạn kiệt tài nguyên. Chúng tôi xác định tăng trưởng xanh và phát triển bền vững là lựa chọn chiến lược, không thể đảo ngược".




