Diện tích rừng nguyên sinh còn nguyên của Việt Nam chỉ còn 0,25%

Mai Anh|13/11/2020 05:30
Theo dõi Môi trường & Cuộc sống trên

Moitruong.net.vn – Dù độ che phủ rừng đạt tới 42% với 14,6 triệu ha đất có rừng vào năm 2019, nhưng rừng nguyên sinh ở Việt Nam còn nguyên chỉ có 0,25%.

Rừng giàu thành rừng nghèo kiệt

Số liệu này được ông Oemar Idoe – Trưởng nhóm các dự án môi trường, biến đổi khí hậu, nông nghiệp về hội nhập kinh tế khu vực (Tổ chức hợp tác phát triển Đức GIZ) đưa ra tại Hội nghị toàn quốc về công tác quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ năm 2020 tổ chức tại TP.Đà Lạt (Lâm Đồng) mới đây.

Theo ông Oemar Idoe, điều này phản ánh một thực tế rằng, quản lý rừng bền vững và bảo tồn tài sản đa dạng sinh học và các hệ sinh thái còn cần thêm những nỗ lực và sự quan tâm mạnh mẽ của chính phủ, các cấp, các ngành.

Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN-PTNT) cho biết toàn quốc hiện có khoảng 4,64 triệu ha rừng phòng hộ, trong đó có 3,95 triệu ha rừng tự nhiên, 0,69 triệu ha rừng trồng. Tổng diện tích rừng phòng hộ là rừng tự nhiên giảm từ 4,3 triệu ha năm 2010 xuống còn 3,95 triệu ha năm 2019, và diện tích rừng phòng hộ là rừng trồng tăng nhẹ từ 0,61 triệu ha năm 2010 lên 0,69 triệu ha năm 2019.

Ảnh minh họa

Tính tới thời điểm hiện tại, dữ liệu về chất lượng rừng phòng hộ rất hạn chế, mới chỉ thể hiện qua công bố hiện trạng rừng sau khi hoàn thành tổng điều tra kiểm kê rừng năm 2016 của Tổng cục Lâm nghiệp. Số liệu này cho thấy diện tích rừng phòng hộ là rừng gỗ tự nhiên giàu và trung bình là trên 1 triệu ha (chiếm 29,8% diện tích rừng phòng hộ là rừng tự nhiên).

Như vậy, có thể thấy chất lượng rừng tự nhiên chưa đạt yêu cầu phòng hộ và ngành lâm nghiệp cũng như toàn xã hội phải đầu tư nhiều hơn để rừng có thể duy trì và phát triển đạt yêu cầu phòng hộ.

Chia sẻ về thông tin tỉ lệ che phủ rừng của Việt Nam gần 42%, GS Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, cũng cho biết, diện tích rừng tự nhiên hiện còn rất ít. Mấu chốt là chất lượng rừng hiện nay rất thấp. Cũng là rừng tự nhiên nhưng xưa là rừng giàu và trung bình, giờ là rừng nghèo và rừng kiệt. Xưa trên 1 ha rừng có 250 m3 gỗ nhưng giờ chỉ còn 25 m3 gỗ, nhưng nó vẫn là rừng.

“Như thế, độ che phủ bằng nhau nhưng chất lượng rừng không bằng một nửa so với trước đây. Chất lượng đó ảnh hưởng đến năng lực phòng hộ của rừng. Trước đây mật độ cây ken đặc, rễ đan nhau dày đặc thì giờ cây ít đi, cây to không có… nên vai trò bảo vệ của rừng bị suy giảm đi nhiều. Nếu đất trống, đồi trọc, chỉ có cỏ và cây bụi khi mưa xuống có tới 95% chảy tràn trên mặt, chỉ có 5% thấm một lớp mỏng vào đất. Lượng nước chảy tràn trên mặt gọi là lũ, như lũ ống, lũ quét…

Nhưng có rừng tự nhiên thì 90% nước rơi xuống không chảy tràn trên mặt nữa mà thấm sâu dưới đất. Nếu một cơn mưa bình thường kéo dài 1 – 2 giờ với lượng mưa khoảng 100 mm thì không có nước chảy tràn trên mặt, hết cơn mưa là mặt đất không có nước mà thẩm thấu trở thành nước ngầm, không còn khả năng gây lũ ống, lũ quét”, GS Nguyễn Ngọc Lung cho hay.

Trong khi thế giới ra sức bảo vệ rừng tự nhiên thì chúng ta lại phá rừng tự nhiên để làm kinh tế. Rừng tự nhiên dù có nghèo kiệt thế nào chăng nữa thì về đa dạng sinh học cũng gấp nhiều lần rừng trồng. Vì thế, các chuyên gia quốc tế khuyến cáo rằng thà giữ 1ha rừng tự nhiên còn hơn phát triển 5 – 10 ha rừng trồng.

Quan trọng vừa là tổng diện tích, tỉ lệ rừng có trên lãnh thổ nhưng còn là bố trí ở chỗ nào. Có những quốc gia chỉ có 30 – 35% rừng nhưng cực kỳ an toàn vì đã có quy hoạch gọi là lâm phận ổn định, chỗ nào cần có rừng, loại rừng gì thì người ta làm đúng như thế. Sự trả giá vì mất rừng chúng ta cũng đang chứng kiến rất rõ.

Mất rừng, lũ lụt xảy ra ở ngay thượng nguồn chứ không phải hạ lưu. Thế giới đã khẳng định, rừng là nhân tố tốt nhất để người dân tham gia vào chống biến đổi khí hậu.

Dân số đe dọa, ảnh hưởng tới phát triển bền vững rừng

Cũng theo Tổng cục Lâm nghiệp, sau 6 năm thực hiện Quyết định số 1976/QĐ-TTg của Thủ tướng, phê duyệt quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng, mục tiêu từ 2,2 triệu ha đến năm 2020 đạt 2,4 triệu ha. Thế nhưng đến nay mới đạt hơn 2,3 triệu ha với 167 khu rừng đặc dụng gồm: 33 vườn quốc gia, 57 khu bảo tồn thiên nhiên, 14 khu bảo tồn loài/ sinh cảnh, 54 khu bảo vệ cảnh quan và 9 khu thực nghiệm khoa học. Năm 2019 có 61 khu rừng đặc dụng tổ chức hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, thu hút được 2,5 triệu lượt du khách, doanh thu đạt khoảng 185 tỉ đồng.

Chính áp lực tăng dân số đang là mối đe dọa, ảnh hưởng tới phát triển bền vững rừng đặc dụng.

Cụ thể, nhu cầu đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, các nhu cầu sử dụng gỗ và khai thác lâm sản ngày càng tăng; làm tăng áp lực chuyển đổi mục đích đất lâm nghiệp sang các loại đất khác và khai thác tài nguyên quá mức hoặc phá rừng bất hợp pháp.

Tình trạng khai thác săn bắt động vật, thực vật quý, hiếm vẫn xảy ra tại các khu rừng đặc dụng và vùng lân cận. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, đô thị, xây dựng những công trình thủy điện, hồ đập giữ nước ngày càng nhiều dẫn đến tình trạng diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên của các loài động, thực vật rừng phân bố trong các khu rừng đặc dụng.

Mặt khác, diễn biến về biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, thay đổi quy luật thời tiết, làm ảnh hưởng trực tiếp đến các loài sinh vật, gây ra những hiện tượng cháy rừng, sạt lở, ngập lụt đe dọa đến hệ sinh thái rừng.

Mai Anh

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
}
Diện tích rừng nguyên sinh còn nguyên của Việt Nam chỉ còn 0,25%
(*) Bản quyền thuộc về Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.