Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV: Sự cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự

Mai Hoa|11/11/2022 16:45
Theo dõi Môi trường & Cuộc sống trên

Trong những năm qua, công tác phòng thủ dân sự từng bước được hoàn thiện cả về thể chế và tổ chức thực hiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu phòng, chống, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố thiên tai, dịch bệnh, góp phần to lớn vào việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, tạo môi trường ổn định phát triển kinh tế - xã hội.

bt-pvg.jpg
Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình bày trước Quốc hội tờ trình dự án Luật Phòng thủ dân sự.  

Tuy nhiên, theo Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, bên cạnh những kết quả đạt được còn một số vấn đề đặt ra, cần phải luật hóa để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tiễn.

Việc ban hành Luật Phòng thủ dân sự là cần thiết

Trình bày tờ trình dự án Luật Phòng thủ dân sự trước Quốc hội tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV ngày 26/10/2022, Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ: Trong những năm qua, công tác phòng thủ dân sự từng bước được hoàn thiện cả về thể chế và tổ chức thực hiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu phòng, chống, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, góp phần to lớn vào việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, tạo môi trường ổn định phát triển kinh tế - xã hội.

Thế nhưng, bên cạnh những kết quả đạt được còn một số vấn đề đặt ra, cần phải luật hóa để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tiễn.

Theo đó, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ ràng các cấp độ về phòng thủ dân sự làm cơ sở để xác định các biện pháp ứng phó. Việc quy định các biện pháp ứng phó cũng chưa có sự thống nhất: Có văn bản quy định biện pháp theo cấp độ, có văn bản quy định theo quy mô, đơn vị hành chính hoặc theo trách nhiệm, thẩm quyền của từng cơ quan, có văn bản liệt kê theo loại dịch bệnh, có văn bản quy định liệt kê các biện pháp để tùy thuộc tình hình cơ quan có trách nhiệm lựa chọn áp dụng biện pháp thích hợp... dẫn đến khó khăn trong công tác triển khai thực hiện.

Mặt khác, thực tiễn công tác phòng, chống, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh thời gian qua, nhất là đối với thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm, quy mô lớn cho thấy nhiều biện pháp đã được quy định nhưng chưa đủ, chưa phù hợp và hiệu quả; nhiều biện pháp chưa được pháp luật quy định nhưng do yêu cầu cấp thiết đã được áp dụng và phát huy hiệu quả, như: Giãn cách xã hội, bắt buộc sơ tán người, tài sản để bảo đảm an toàn, lực lượng phòng, chống, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, nguồn lực, chính sách an sinh xã hội, khôi phục kinh tế,...

Thực tiễn cũng đòi hỏi phải có những biện pháp có tính chuyển tiếp trước khi xã hội chuyển sang tình trạng khẩn cấp (giai đoạn tiền khẩn cấp) cần được luật hóa để có cơ sở pháp lý và thực hiện đồng bộ, thống nhất.

Đặc biệt, xuất phát từ nội hàm khái niệm phòng thủ dân sự rộng, bao hàm nhiều lĩnh vực liên quan đến các bộ, ngành nên có nhiều tổ chức phối hợp liên ngành ở Trung ương chỉ đạo trong việc phòng, chống, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh và tìm kiếm cứu nạn, dẫn đến có sự trùng lặp về vị trí, chức năng, nhiệm vụ. Khi có thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh thì các tổ chức chỉ đạo, chỉ huy đều vào cuộc, gây lúng túng cho các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực thi nhiệm vụ.

Cùng với đó, hệ thống tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự ở Trung ương và các bộ, ngành hiện nay chưa thống nhất. Ở Trung ương (cấp quốc gia) tồn tại độc lập nhiều cơ quan, tổ chức chỉ đạo, chỉ huy (Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia, Ban Chỉ đạo quốc gia về Phòng, chống thiên tai, Ủy ban quốc gia Ứng phó sự cố, thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn,…); trong khi đó, cấp bộ, ngành Trung ương và địa phương đã hợp nhất các tổ chức chỉ đạo, chỉ huy thành một tổ chức duy nhất là Ban chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn, đồng thời là Ban chỉ huy Phòng thủ dân sự, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chỉ đạo hoặc Ban chỉ huy Phòng thủ dân sự cấp trên. Sự thiếu đồng bộ này khiến cho công tác chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự khó thông suốt, lúng túng trong quá trình triển khai.

Đáng chú ý, một số loại thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh có diễn biến nhanh, đòi hỏi phải huy động lực lượng và tổ chức ứng phó kịp thời, khẩn trương; những thảm họa, sự cố nguy hiểm cần huy động thêm lực lượng chuyên môn của cơ quan trong các ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, quy định về chức năng, nhiệm vụ, vai trò của lực lượng chuyên trách, của chính quyền chưa thực sự rõ ràng gây khó khăn trong triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Ngoài ra, phòng thủ dân sự là lĩnh vực được nhiều quốc gia trên thế giới hết sức coi trọng và đã ban hành đạo luật riêng về phòng thủ dân sự hoặc quy định tại các văn bản pháp luật liên quan đến phòng thủ dân sự, như: Nga, Mỹ, Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore… Các đạo luật về phòng thủ dân sự ở các quốc gia này thể hiện rõ khái niệm, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, sử dụng lực lượng, công tác chuẩn bị bảo đảm cho các lực lượng tham gia nhiệm vụ phòng thủ dân sự.

“Từ các lý do nêu trên, việc xây dựng Luật Phòng thủ dân sự là rất cần thiết, nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho việc chủ động phòng, chống, ứng phó hiệu quả với các thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an ninh, an toàn cho đất nước khi có tình huống xảy ra”, Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh.

Theo Đại tướng Phan Văn Giang, việc xây dựng dự thảo luật cũng là nhằm tạo khung pháp lý chung nhất cho việc phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng, chống, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh nhằm bảo vệ cao nhất tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, nâng cao hiệu quả pháp lý của hệ thống pháp luật về phòng thủ dân sự.

Đồng thời, tăng cường các biện pháp phòng ngừa và bảo đảm tính chủ động trong công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ người dân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ môi trường.

Song song với đó là nâng cao năng lực về phòng thủ dân sự, góp phần làm giảm thiểu thiệt hại do thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh gây ra; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gắn với củng cố quốc phòng, an ninh và từng bước hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Không chồng chéo với các luật hiện hành

pvg.jpg
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang cho biết, Ban soạn thảo sẽ tiếp tục rà soát, nghiên cứu, tiếp thu nghiêm túc ý kiến của các đại biểu Quốc hội để hoàn thiện dự án Luật đạt chất lượng cao.

Nói thêm về phạm vi điều chỉnh của luật, Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định, dự thảo Luật Phòng thủ dân sự đã có sự phân định về phạm vi điều chỉnh, bảo đảm không chồng chéo với phạm vi điều chỉnh của các luật hiện hành.

Cụ thể, Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ, dự thảo Luật Phòng thủ dân sự chỉ điều chỉnh về phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh, phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa và những sự cố có nguy cơ trở thành thảm họa.

Bên cạnh đó, dự thảo luật cũng quy định những nguyên tắc, nội dung, biện pháp chung liên quan đến hoạt động phòng thủ dân sự, đáp ứng tình hình thực tiễn và một số vấn đề mới mà các luật khác chưa quy định, như: Xây dựng chiến lược, xây dựng kế hoạch phòng thủ dân sự, xác định các cấp độ phòng thủ dân sự, biện pháp ứng phó trong từng cấp độ phòng thủ dân sự, hoạt động phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh, hoạt động phòng thủ dân sự trên các vùng biển Việt Nam không thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Đồng thời, theo Đại tướng Phan Văn Giang, để tạo cơ sở cho việc triển khai các biện pháp phòng thủ dân sự phù hợp với mức độ thảm họa, sự cố, bảo đảm không chồng chéo với các luật chuyên ngành khác, dự thảo luật quy định đánh giá mức độ rủi ro về thảm họa, sự cố, là cơ sở để xây dựng kế hoạch, xây dựng phương án và triển khai các biện pháp ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, làm căn cứ xác định cấp độ phòng thủ dân sự; đồng thời quy định cụ thể tiêu chí đánh giá và các cấp độ phòng thủ dân sự cũng như các biện pháp trong từng cấp độ phòng thủ dân sự.

“Như vậy, dự thảo luật đã có sự phân định về phạm vi điều chỉnh, đồng thời bảo đảm liên hệ chặt chẽ với các luật chuyên ngành, tạo thành cơ chế đồng bộ, thống nhất trong phòng thủ dân sự”, Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh.

Ngoài ra, Đại tướng Phan Văn Giang cũng làm rõ thêm về Quỹ phòng thủ dân sự. Trước đó, có ý kiến đại biểu đề nghị làm rõ quy định về Quỹ phòng thủ dân sự để bảo đảm hoạt động không chồng chéo, có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật.

Về vấn đề này, Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ: Việc thành lập Quỹ phòng thủ dân sự là cần thiết để hỗ trợ cho các hoạt động cứu trợ khẩn cấp; củng cố, sửa chữa các công trình hạ tầng của nhà nước và của nhân dân; bảo đảm cấp thiết lương thực, thực phẩm, nước uống, thuốc chữa bệnh và các nhu cầu cấp thiết khác trong bối cảnh xảy ra thảm họa, sự cố.

Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ, dự thảo luật quy định Quỹ phòng thủ dân sự được thành lập ở Trung ương và ở địa phương cấp tỉnh. Nguồn tài chính của Quỹ phòng thủ dân sự được hình thành trên cơ sở hỗ trợ đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, điều tiết từ quỹ ngoài ngân sách có liên quan đến thảm họa sự cố; bảo đảm Quỹ phòng thủ dân sự hoạt động không chồng chéo, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật...

Theo phân tích của đại biểu Dương Khắc Mai (Đoàn Thanh Hóa): Việc xây dựng, ban hành Luật Phòng thủ dân sự là để thể chế hóa các quan điểm của Đảng, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật toàn diện, chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, ngày 30-8-2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 22 về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo cùng những định hướng đầy đủ, cụ thể cho việc xây dựng Luật Phòng thủ dân sự.

Ông Mai nhấn mạnh: Phòng thủ dân sự là một bộ phận của phòng thủ đất nước, bao gồm các biện pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, chống, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân.

"Vì vậy, nếu làm tốt công tác phòng thủ dân sự sẽ là một nhân tố quan trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời cũng là động lực để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", đại biểu Dương Khắc Mai nêu rõ.

Mặt khác, đại biểu cũng cho rằng, thực tế những năm qua cho thấy các thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh diễn biến hết sức phức tạp, diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở nước ta; trong khi đó, hệ thống pháp luật của chúng ta chưa bao quát hết các lĩnh vực, do đó, việc ứng phó với các sự việc trên đôi khi còn lúng túng, chưa kịp thời.

"Do đó, việc ban hành Luật Phòng thủ dân sự không chỉ bảo đảm tính thống nhất, toàn diện, bao quát, đầy đủ các lĩnh vực mà còn mang tính chiến lược trong nhiệm vụ lập pháp để ứng phó với những bất thường của “Mẹ thiên nhiên”, những bất cẩn của con người và những bất định của thế giới", đại biểu nói.

Đại biểu Đoàn Thị Lê An (Đoàn Cao Bằng) cho rằng nước ta nằm trong số những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, hậu quả thiên tai, mưa bão, hạn hán, cháy rừng hết sức nghiêm trọng...nên “cần phải hoàn thiện cơ sở pháp lý để chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa, góp phần bảo đảm an ninh, an toàn cho đất nước".

Ngày 30-8-2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo” đã xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là “Xây dựng Luật Phòng thủ dân sự”. Đây là căn cứ chính trị quan trọng để xây dựng Luật Phòng thủ dân sự.

Nội dung Luật Phòng thủ dân sự tập trung vào 6 chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13-6-2022, gồm:

Chính sách 1: Đánh giá mức độ rủi ro của thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh trong hoạt động phòng thủ dân sự.

Chính sách 2: Phân công trong quản lý nhà nước và phân cấp trong tổ chức hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh.

Chính sách 3: Quy định các biện pháp bảo vệ người dân trước thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh và hỗ trợ người dân bị thiệt hại.

Chính sách 4: Đổi mới tổ chức của Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia.

Chính sách 5: Ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn (big data) trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh.

Chính sách 6: Hoạt động phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV: Sự cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự