(Moitruong.net.vn) – Vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai xây dựng xong Dự thảo Nghị định về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng. Hiện tại đang xin ý kiến tham gia của các Bộ, ngành và địa phương, sau đó trình Chính phủ xem xét, ban hành.
Dự thảo Kiểm lâm hiệu, Ký hiệu, Cờ hiệu,… của lực lượng Kiểm lâm Việt Nam (Ban hành kèm theo Dự thảo Nghị định về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng)
Đối với Lực lượng Kiểm lâm
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 119/2006/NĐ-CP ngày 16/10/2006 về tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm. Sau hơn gần 12 năm thực hiện Nghị định số 119/2006/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới tổ chức và hoạt động Kiểm lâm, đã đạt được những kết quả tích cực như:
Hệ thống tổ chức Kiểm lâm đã ổn định từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện; trước khi thực hiện Nghị định số 119/2006/NĐ-CP mới có 60/64 tỉnh, thành phố thành lập Chi cục Kiểm lâm; trong đó, có 44 tỉnh Chi cục Kiểm lâm trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, có 16 tỉnh Chi cục Kiểm lâm trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, có 4 tỉnh chưa thành lập Chi cục Kiểm lâm. Đến nay, lực lượng Kiểm lâm đã được thành lập ở tất cả 63/63 tỉnh, thành phố, thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Lực lượng Kiểm lâm đã có những bước chuyển biến tích cực để phù hợp với cơ chế quản lý mới; từ năm 2015, ở các địa phương hầu hết Kiểm lâm cấp tỉnh, cấp huyện tham mưu thực hiện toàn diện các nhiệm vụ về lâm nghiệp trên địa bàn góp phần giảm đầu mối về bộ máy tổ chức trong ngành lâm nghiệp.
Kiểm lâm đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; chủ động tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ rừng, từng bước đáp ứng yêu cầu thực tiễn; tổ chức thực hiện nhiều giải pháp về bảo vệ và phát triển rừng, tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng đã giảm so những năm trước đây, góp phần nâng độ che phủ rừng từ 37,7% (năm 2006) lên 41,45 % (năm 2017); trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của chính quyền cơ sở và ý thức của toàn xã hội trong công tác bảo vệ rừng từng bước được nâng lên.
Rừng tự nhiên được quản lý, bảo vệ tốt tại huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang
Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế sau:
Một là, tổ chức Kiểm lâm còn thiếu thống nhất, nhiều nơi trên cùng một địa bàn còn nhiều tổ chức Kiểm lâm; trong đó Kiểm lâm rừng đặc dụng, rừng phòng hộ có nơi thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nơi thuộc Chi cục Kiểm lâm; dẫn đến thiếu thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, giải quyết chế độ, chính sách cho công chức, viên chức Kiểm lâm…
Hai là, cơ cấu bộ máy tổ chức Kiểm lâm từ Trung ương đến địa phương chưa thống nhất từ tên gọi cũng như số lượng các phòng nghiệp vụ; tuy nhiều tỉnh có chung những điều kiện như nhau, nhưng có tỉnh thành lập 5 phòng, có tỉnh thành lập 4 hoặc 3, 2 phòng.
Ba là, việc áp dụng Nghị định số 119/2006/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn về tổ chức, nhiệm vụ của Kiểm lâm không được các địa phương thực hiện thống nhất, dẫn đến khó khăn trong thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ và chỉ đạo, điều hành chung.
Bốn là, việc quy định định mức biên chế bình quân toàn quốc cứ 1.000 ha rừng (Nghị định 119/2006/NĐ-CP) và 500 ha rừng đặc dụng (Nghị định 117/2010/NĐ-CP) có 01 biên chế công chức Kiểm lâm, có cơ sở để các địa phương bố trí biên chế công chức Kiểm lâm. Tuy nhiên, thực tiễn lại không phù hợp đối với những tỉnh có ít rừng hoặc không có rừng vẫn phải thành lập tổ chức Kiểm lâm để quản lý các cơ sở kinh doanh, chế biến lâm sản, quản lý gây nuôi động vật hoang dã và thực hiện các nhiệm vụ về phát triển lâm nghiệp trên địa bàn, trong khi đó có những nơi là trọng điểm về phá rừng cần số lượng Kiểm lâm lớn hơn.
Năm là, Kiểm lâm có thẩm quyền điều tra, khởi tố hình sự, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng, phát triển rừng và quản lý lâm sản; tuy nhiên, các tổ chức Kiểm lâm rừng đặc dụng, rừng phòng hộ lại nằm trong đơn vị sự nghiệp là các Ban Quản lý rừng, là viên chức Kiểm lâm dẫn đến khó khăn, bất cập trong các hoạt động thực thi pháp luật theo thẩm quyền.
Sáu là, còn bất cập giữa công chức và viên chức, trong đó, viên chức chiếm 28% tổng biên chế; kiểm lâm làm việc tại các Ban Quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ cần một số vị trí là biên chế công chức để thực thi công vụ nhưng hầu hết vẫn là viên chức (duy nhất chỉ có Giám đốc Ban Quản lý kiêm Hạt trưởng là công chức)
Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14, quy định: “Kiểm lâm là tổ chức có chức năng quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp; là lực lượng chuyên ngành về phòng cháy, chữa cháy rừng”; theo đó, nhiệm vụ của Kiểm lâm cần thiết sửa đổi, bổ sung cho phù hợp yêu cầu thực tiễn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Lâm nghiệp.
Đối với Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng
Dự thảo Phù hiệu, Ký hiệu,… của lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng (Ban hành kèm theo Dự thảo Nghị định về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng)
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 44/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 về Lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách của chủ rừng; nhằm cụ thể hóa Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, khẳng định vị trí pháp lý, thống nhất về mô hình tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ chính sách để đáp ứng yêu cầu bảo vệ rừng của chủ rừng; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường xã hội hóa công tác bảo vệ rừng.
Sau hơn một năm thực hiện Quyết định số 44/2016/QĐ-TTg, đã có 528 chủ rừng tổ chức được lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách với 6.791 người (trong đó: có 91 Ban Quản lý rừng đặc dụng/415 người; 182 Ban Quản lý rừng phòng hộ/2.529 người; 246 doanh nghiệp/3.460 người; 9 tổ chức khác/282 người). Hiện vẫn còn 257 chủ rừng chưa tổ chức được lực lượng bảo vệ rừng của mình (16 Ban Quản lý rừng đặc dụng, 44 Ban Quản lý rừng phòng hộ, 135 doanh nghiệp, 62 tổ chức khác).
Mặc dù nhiều chủ rừng đã tổ chức được lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng; tuy nhiên, tính ổn định của lực lượng này chưa cao, không thu hút được người lao động do chế độ, chính sách đãi ngộ thấp, khi phải làm việc trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ không quy định chế độ, chính sách đãi ngộ cho lực lượng này để thu hút nguồn lực lao động; do vậy, cần cụ thể hóa tại Nghị định của Chính phủ theo Khoản 4, Điều 41 Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14 giao Chính phủ quy định chi tiết lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng.
Vì vậy, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, kế thừa những nội dung tích cực, phù hợp thực tiễn, khắc phục những tồn tại, bất cập; sửa đổi, bổ sung những quy định mới phù hợp với Luật Lâm nghiệp, phù hợp với thực tiễn thì cần thiết xây dựng Nghị định về Kiểm lâm và Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, thay thế Nghị định 119/2006/NĐ-CP về Tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm và Quyết định số 44/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 về Lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách của chủ rừng.
Dương Đại Tiến