Hội thảo khoa học “Tăng cường năng lực, phổ biến kiến thức cho cộng đồng, doanh nghiệp về việc tạo tín chỉ và tham gia trao đổi bù trừ tín chỉ các-bon”
Sáng 12/11, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Hội Nước và Môi trường Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Tăng cường năng lực, phổ biến kiến thức cho cộng đồng, doanh nghiệp về việc tạo tín chỉ và tham gia trao đổi bù trừ tín chỉ các-bon”.
Hội thảo là diễn đàn để cơ quan quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp chia sẻ kinh nghiệm, thảo luận về xây dựng khung pháp lý, cơ chế vận hành, định giá và quản lý thị trường các-bon tại Việt Nam, đồng thời nhận diện cơ hội và thách thức trong tiến trình hội nhập thị trường các-bon toàn cầu.
Tham dự hội thảo có PGS.TS Phạm Quang Thao, Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam; ông Lê Thanh Tùng, Trưởng ban Truyền thông và Phổ biến kiến thức Liên hiệp Hội; bà Phạm Thị Xuân, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nước và Môi trường Việt Nam; ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam – Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống cùng đại diện các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp trong lĩnh vực nước, môi trường và biến đổi khí hậu.

Phát biểu khai mạc, PGS.TS Phạm Quang Thao nhấn mạnh: Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu đã được đặt ra từ thập niên 1990 với những cam kết quốc tế đầu tiên về giảm phát thải khí nhà kính. Cam kết Net Zero vào năm 2050 do Thủ tướng Phạm Minh Chính công bố tại COP26 đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế.

Ông cho rằng, cần tăng cường phổ biến kiến thức về hiệu ứng nhà kính, cách tính tín chỉ các-bon, cơ chế bù trừ và các công cụ tài chính xanh để tín chỉ các-bon trở thành phương tiện quản lý chủ động các tác động của biến đổi khí hậu.
Phát biểu tại hội thảo, bà Phạm Thị Xuân khẳng định Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Để hiện thực hóa mục tiêu Net Zero, Việt Nam cần hoàn thiện chính sách, tăng cường năng lực giám sát và thúc đẩy hợp tác quốc tế, hướng tới hội nhập sâu với thị trường các-bon toàn cầu.

Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường tín chỉ các-bon
Theo TS. Thái Thị Thanh Minh, Phó Trưởng Bộ môn Biến đổi khí hậu và Phát triển bền vững, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, thị trường tín chỉ các-bon (TCCB) là công cụ kinh tế quan trọng giúp doanh nghiệp đạt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.
Hiện nay, thị trường các-bon Việt Nam mới ở giai đoạn hình thành, với Nghị định 06/2022/NĐ-CP tạo khung pháp lý bước đầu. Tuy nhiên, vẫn thiếu quy định chi tiết về cơ chế giao dịch, thanh toán, định giá và giải quyết tranh chấp.

TS. Thanh Minh kiến nghị cần thống nhất cơ quan quản lý thị trường các-bon quốc gia, xây dựng sổ đăng ký tín chỉ các-bon duy nhất, bảo đảm minh bạch, tránh tính toán kép và kết nối thị trường các-bon với các công cụ tài chính xanh như tín dụng, trái phiếu xanh.
Doanh nghiệp cần chủ động tham gia thị trường các-bon
Trình bày tham luận tại hội thảo, TS. Hà Quang Anh, Quyền Giám đốc Trung tâm Thích ứng biến đổi khí hậu và Trung hòa các-bon (Cục Biến đổi khí hậu), cho biết để tạo tín chỉ các-bon, doanh nghiệp phải xây dựng dự án giảm phát thải, được thẩm định, đăng ký và giám sát độc lập theo chuẩn quốc tế.
Hiện Việt Nam đang triển khai hai nhóm cơ chế: thị trường các-bon trong nước và cơ chế trao đổi quốc tế. Doanh nghiệp được phép dùng tín chỉ để bù trừ tối đa 30% lượng phát thải vượt hạn ngạch, đồng thời được khuyến khích tham gia thị trường các-bon tự nguyện.

“Tham gia thị trường các-bon không chỉ là yêu cầu cần tuân thủ mà còn là cơ hội kinh tế mới, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài chính khí hậu và thúc đẩy phát triển xanh,” ông Hà Quang Anh nhấn mạnh.
Giảm phát thải từ nông nghiệp, hướng tới nền kinh tế các-bon thấp
Theo PGS.TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Nông nghiệp Môi trường (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), nông nghiệp là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất, chủ yếu từ canh tác lúa nước và chăn nuôi.

Ông nêu rõ nhiều giải pháp đang được triển khai như: Tưới khô – ướt xen kẽ (AWD) trong trồng lúa, quản lý phân bằng công nghệ biogas, giảm đạm hóa học, tận dụng rơm rạ để sản xuất than sinh học (biochar) hoặc phân compost, hướng đến mô hình kinh tế tuần hoàn nông nghiệp.
Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
Phân tích sâu hơn, TS. Đinh Thái Hưng, Điều phối viên Quốc gia – Đối tác NDC, cho rằng Điều 6 Thỏa thuận Paris mở ra cơ hội lớn huy động nguồn vốn quốc tế cho các dự án giảm phát thải. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là thiếu cơ chế phân bổ hạn ngạch phát thải minh bạch và chất lượng tín chỉ còn hạn chế.

Ông Hưng lưu ý, khi EU áp dụng cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM), các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ chịu áp lực tuân thủ cao hơn. Do đó, ông khuyến nghị:
Thứ nhất, chủ động kiểm kê khí nhà kính (MRV) từ năm 2025 để được phân bổ hạn ngạch hợp lý;
Thứ hai, phát triển các dự án tín chỉ nội bộ nhằm bù trừ và tạo nguồn thu;
Thứ ba, tận dụng tín chỉ các-bon như đòn bẩy tài chính xanh, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn quốc tế và xanh hóa chuỗi cung ứng.
Phần thảo luận của hội thảo thu hút nhiều ý kiến chuyên môn sâu về tính toán tín chỉ các-bon cho rừng trồng, nông lâm kết hợp, cũng như phát thải từ rơm rạ trong nông nghiệp...
Trước câu hỏi của TS Thái Thị Thanh Minh về nguyên tắc tính toán tín chỉ carbon rừng, nhất là đối với rừng trồng nông lâm kết hợp thì việc tính tín chỉ các-bon như thế nào, trả lời về vấn đề này, TS. Hà Quang Anh, Giám đốc Trung tâm Thích ứng BĐKH và Trung hòa các-bon, Cục Biến đổi khí hậu cho biết, hiện nay rừng ở Việt Nam được chia làm 17 loại.
Mặc dù có nhiều loại rừng khác nhau (theo nguồn gốc, kiểu sinh thái, hoặc độ giàu có), nguyên tắc tính tín chỉ carbon vẫn tương đồng, dựa trên việc định lượng sự gia tăng lượng hấp thụ hoặc giảm phát thải thông qua các hoạt động lâm sinh. Một vấn đề khó khăn hiện nay là việc xác định tỷ lệ đóng góp cho NDC quốc gia trước khi có thể giao dịch phần dư thừa và cần có một phương pháp luận đồng thuận cao để giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế này.
“Quy trình tạo tín chỉ các-bon cho các dự án trồng rừng sản xuất yêu cầu các chủ rừng phải cam kết giữ rừng trong một thời gian nhất định và tuân thủ các bước đăng ký, thẩm định theo tiêu chuẩn quốc tế”, TS Hà Quang Anh phân tích.

Đề cập đến vấn đề phát thải khí nhà kính từ rơm rạ trong nông nghiệp, ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống đã đặt câu hỏi tới PGS.TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường Nông nghiệp (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), về việc: Giữa hai phương thức xử lý rơm rạ là đốt và vùi vào đất, hình thức nào gây phát thải khí nhà kính nhiều hơn.
Trả lời về vấn đề này, Viện trưởng Mai Văn Trịnh đưa ra các số liệu cụ thể về lượng khí thải (metan, CO2, N2O) khi đốt một tấn rơm rạ, đồng thời khẳng định rằng việc vùi rơm rạ tươi có thể gây phát thải CO2 tương đương lớn hơn đáng kể so với đốt, nhưng việc vùi rơm rạ lại giúp trả lại hữu cơ cho đất. Ông Trịnh cũng đề cập đến tác hại của việc đốt rơm rạ như làm mất cacbon và chỉ còn lại một lượng kali nhỏ.
“Với các dự án giảm phát thải trong canh tác lúa (như dự án 1 triệu ha) và khả năng ứng dụng than hóa rơm rạ thì cách sử dụng năng lượng tái tạo (như khí biogas) để giảm phát thải là việc làm tối ưu nhất hiện nay”, PGS.TS Mai Văn Trịnh nêu rõ.
Phát biểu bế mạc hội thảo, bà Phạm Thị Xuân đánh giá cao những đóng góp của các chuyên gia và nhà khoa học. Bà khẳng định: “Biến đổi khí hậu và tài nguyên nước là vấn đề mà Hội Nước và Môi trường Việt Nam luôn trăn trở. Chúng tôi mong muốn có thêm nhiều diễn đàn khoa học như thế này để cùng các trường đại học, cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng tìm ra giải pháp hiệu quả cho phát triển bền vững.”
Một số hình ảnh tại hội thảo:





![[VIDEO] Khai mạc Hội nghị Hội đồng Nước châu Á lần thứ 23 và Hội thảo kỹ thuật AWC 2025](https://mtcs.1cdn.vn/2025/11/05/tn(2).jpg)



